Bản án số 415/2024/DS-PT ngày 26/09/2024 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 415/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 415/2024/DS-PT ngày 26/09/2024 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Long An
Số hiệu: 415/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 26/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Trần Quốc Phong "tranh chấp HĐCNQSDĐ" Nguyễn Hữu Phước
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LONG AN
¯¯¯¯¯¯¯¯¯
Bản án số: 415/2024/DS-PT
Ngày: 26-9-2024
V/v Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa:Bà Trịnh Thị Phúc
Các Thẩm phán:Ông Đặng Văn Những
Bà Nguyễn Thị Mỹ Hạnh
- Thư phiên tòa: Phạm Thùy Dương - Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Long An.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa:
Nguyễn Thị Kim Chung - Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thsố 296/2024/TLPT-DS ngày 8 tháng 7 năm
2024, về việc Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Do Bản án dân sự thẩm số 20/2024/DS-ST ngày 01 tháng 3 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An bị kháng cáo, kháng ngh
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm s304/2024/QĐ-PT ngày
16 tháng 7 năm 2024, thông báo thay đổi lịch xét xử phúc thẩm số
296/2024/TB-TA ngày 09/9/2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Trần Quốc P, sinh năm 1978. Địa chỉ: Ấp P, T,
thành phố M, tỉnh Tiền Giang.
Người đại diện theo ủy quyền của ông P: Kim D, sinh năm 1965.
Địa chỉ: Số A N, phường C, thành phố T, tỉnh Long An. (Hợp đồng ủy quyền
ngày 02/11/2021)
- Bị đơn: Ông Nguyễn Hữu P1, sinh năm 1996. Địa chỉ: Ấp D, xã M, huyện
T, tỉnh Long An.
Luật bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của ông P1: Luật Văn L -
Chi nhánh Công ty L2 tại thành phố T.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Thị Thảo X, sinh năm 1984. Địa chỉ: Ấp B, H, huyện C, tỉnh
Long An. (vợ ông P)
2
Người đại diện theo ủy quyền của X: Nguyễn Thị Thu H, sinh năm
1966. Địa chỉ: Ấp B, xã B, thành phố T, tỉnh Long An.(Hợp đồng ủy quyền ngày
13/6/2022)
2. Trương Hoài D1, sinh năm 1993. Địa chỉ: Ấp P, L, huyện T, tỉnh
Vĩnh Long (vợ ông P1).
3. Ông Phan Văn D2, sinh năm 1962. Địa chỉ: Ấp P, P, huyện T, tỉnh
Tiền Giang.
4. Lưu Kim Á, sinh năm 1964. Địa chỉ: Ấp P, P, huyện T, tỉnh Tiền
Giang (vợ ông D2).
5. Bà Nguyễn Thị Hồng P2, sinh năm 1999. Địa chỉ: Ấp N, xã L, thành phố
T, tỉnh Long An.
6. Ông Võ Văn K, sinh năm 1978. Địa chỉ: Ấp B, xã H, huyện T, tỉnh Long
An.
7. Ông Phùng Văn T, sinh năm 1996. Địa chỉ: Ấp B, M, huyện T, tỉnh
Long An.
8. Bà Lê Thị Thanh H1, sinh năm 1983. Địa chỉ: Ấp D, xã M, huyện T, tỉnh
Long An.
9. Văn phòng C. Địa chỉ: Số G, Đ, phường B, thành phố T, tỉnh Long An.
10. Ủy ban nhân dân xã M, huyện T, tỉnh Long An.
(Bà D, luật L, H, ông D2, ông K mặt. Các đương sự còn lại vắng
mặt.)
- Người kháng cáo: Ông Trần Quốc P, bà Lê Thị Thảo X.
- Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Quốc P lời trình bày của
người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Kim D nội dung như
sau:
Ông Trần Quốc P Thị Thảo X kết hôn năm 2010. Trong thời gian
chung sống, ông bà tạo lập được nhiều tài sản trong đó Quyền sử dụng
thửa đất số 4445, diện tích 296,4 m
2
loại đất ở nông thôn, tờ bản đồ số 3, tọa lạc
ấp A, xã M, huyện T, tỉnh Long An, đây là tài sản chung của ông P và bà X mua
nhằm mục đích sử dụng. Tiền mua đất là từ lợi nhuận ng việc của ông P gửi
cho X để góp vào mua đất. Tiền lương của X chỉ đủ chi phí sinh hoạt của
X chứ không để mua đất. Do đi làm ăn xa nên ông P chuyển tiền
cho X nhiều lần để tích góp mua đất (số tiền chuyển cho bà X hơn
500.000.000đồng) qua tài khoản của Ngân hàng C1 (V) từ cuối năm 2020 đến
tháng 4/2021.
Khi X mua đất, làm thủ tục thì ông P giao cho X làm ông đi làm
xa. Ông P không biết X mua đất của ai, giá bao nhiêu ông P không nắm
3
nhưng sau khi bà X đứng tên đã cho ông P xem Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số DC 428615 số vào sổ
CS 05393 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp ngày 07/6/2021 cho bà
Thị Thảo X. Các giấy tờ đất do bà X giữ. Sau khi nhận chuyển nhượng đất thì bà
X quản lý đất chứ ông P cũng không biết là làm gì.
Ngày 23/10/2021, ông P phát hiện Thị Thảo X hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất 4445 cho ông Nguyễn Hữu P1 mà
không thông qua ý kiến ông. Cụ thể là ngày 13/7/2021, X đã Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên cho ông Nguyễn Hữu P1 với số tiền
100.000.000đồng, Hợp đồng chứng thực của Ủy ban nhân dân M, số
chứng thực 87, quyển số 01/2021-SCT/HĐ.GD. Ông P hỏi tX nói giá
bán 500 hay 600.000.000đồng nhưng ghi trong hợp đồng là 100.000.000đồng để
tránh thuế và chờ ông P về rồi ra xã ký. Khi nào ông P về mới ra xã hoàn tất thủ
tục nhưng ông P1 đã sang tên rồi.
Do đây tài sản chung của vợ chồng, trong quá trình chuyển nhượng ông
P không biết và không có sự đồng ý của ông P, tuy nhiên Ủy ban nhân dân xã M
vẫn chứng nhận không đúng pháp luật. Ngoài ra, với diện tích 296,4 m
2
giá bán chỉ 100.000.000đồng là hoàn toàn bất hợp lý. Trong thời gian Tòa án
giải quyết tranh chấp thì ngày 05/8/2022, ông P1 lại chuyển nhượng quyền sử
dụng thửa đất số 4445 cho ông Phan Văn D2 làm ảnh hưởng đến quyền lợi
ích hợp pháp của ông P.
Trước đây, ông P khởi kiện yêu cầu bị đơn Thị Thảo X, ông
Nguyễn Hữu P1, Ủy ban nhân dân M phải liên đới bồi thường thiệt hại cho
ông. Nay ông P thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện đối với Thị Thảo X,
ông P không yêu cầu Thị Thảo X Ủy ban nhân dân M liên đới bồi
thường thiệt hại cho ông P s tiền giá trị thửa đất 776.000.000đồng theo
Chứng thư định gsố 213.2022.VT.HS ngày 01/3/2022 của Công ty cổ phần
T1.
Nay ông P xác định yêu cầu khởi kiện như sau:
- Yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Thủ Thừa tuyên Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất thửa số 4445, diện tích 296,4m
2
tờ bản đồ số 3,
loại đất nông thôn, tọa lạc ấp A, M, huyện T, tỉnh Long An giữa Thị
Thảo X với ông Nguyễn Hữu P1 do Ủy ban nhân dân M chứng thực số 87,
quyển số 01/2021-SCT/HĐ.GD ngày 13/7/2021 là vô hiệu.
- Yêu cầu a án nhân dân huyện Thủ Thừa tuyên hủy Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất thửa số 4445, diện tích 296,4m
2
tờ bản đồ số 3, loại
đất nông thôn, tọa lạc ấp A, M, huyện T, tỉnh Long An giữa ông Nguyễn
Hữu P1 với ông Phan Văn D2 lập tại Văn phòng C, quyển số 08/2022TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 5/8/2022.
- Yêu cầu ông Phan Văn D2 giao trả lại quyền sử dụng thửa đất số 4445, tờ
bản đồ số 3, tọa lạc ấp A, xã M, huyện T, tỉnh Long An cho ông Trần Quốc P.
4
- Trường hợp Tòa án tuyên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông
Trần Quốc P như trên thì ông P yêu cầu ông P1 phải bồi thường thiệt hại cho
ông P số tiền 776.000.000đồng theo Chứng thư thẩm định giá số
213.2022.VT.HS ngày 01/3/2022 của Công ty cổ phần T1.
Ngoài ra, nguyên đơn không có yêu cầu nào khác.
Bị đơn ông Nguyễn Hữu P1 trình bày trong suốt quá trình giải quyết vụ án
có nội dung như sau:
Thửa 4445 nguồn gốc là của cha Nguyễn Văn N mHuỳnh Thị L1
cho riêng ông vào tháng 6/2020. Sau đó, ông làm thủ tục lên thổ. Thửa đất này
từ xưa đến nay do cha mẹ ông canh tác trồng lúa mì. Do ông với vợ
Trương Hoài D1 sống không hạnh phúc nên ly thân. Trong lúc ông đang làm thủ
tục ly hôn với D1 thì ông Xương s chung như vợ chồng. Do không am
hiểu pháp luật, sợ khi ly n phải chia tài sản nên khi X nói với ông là sang
tên thửa đất số 4445 cho X đứng tên giùm rồi khi ly hôn xong X sẽ sang
lại cho ông. Ngày 26/3/2021, ông đã lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất sang tên thửa đất số 4445 cho X được chứng thực tại Ủy ban nhân
dân xã M.
Do vợ ông nuôi con dưới 12 tháng tuổi nên ông không ly hôn được ông
phát hiện bà X cũng chưa ly hôn với ông P nên ông mới chấm dứt với bà X. Ông
nói với X sang tên lại thửa đất số 4445 lại cho ông. Ngày 13/7/2021, ông
X lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất sang tên thửa 4445 từ
X cho ông (Ông đã đứng tên đất ngày 02/8/2021). Việc X nói ông kêu
xuống gặp ở nhà trọ tại phường C và bà H1 là người làm hồ sơ là không có. Ông
không biết H1 là ai. Hợp đồng chuyển nhượng được chứng thực tại Ủy ban
nhân dân xã M, do tư pháp lập cho hai bên cùng tên. X nói ông đe dọa
bà X là không đúng.
Việc X chuyển số tiền 391.000.000đồng cho ông thông qua tài khoản
của ông K, ông T, bà Hồng P2 là do ông với bà X có làm ăn thầu số đề, có người
trúng đề nên X mới chuyển khoản để ông chung cho họ. Số tiền X chuyển
cho ông không liên quan đến thửa đất 4445. Ngoài ra, ông không nhận
khoản tiền 200.000.000đồng của bà X.
Ngày 05/8/2022, ông vợ Trương Hoài D1 (bà D1 ủy quyền cho ông
P1) chuyển nhượng thửa đất số 4445 cho ông Phan Văn D2 giá
1.150.000.000đồng. Ông D2 đã giao đủ tiền cho ông và ông đã giao đất cho ông
D2 sử dụng. Tiền bán đất, ông đưa cho D1 400.000.000đồng để nuôi con,
phần tiền còn lại ông sử dụng. Đất đang tranh chấp nhưng do vợ ông nói hết tiền
nuôi con nên ông bán đất đưa tiền cho vợ để nuôi con, ông không có nói với ông
D2 đất đang tranh chấp. Đất này của ông nên ông quyền bán cho ông
D2. Ông không đồng ý yêu cầu khởi kiện của ông P.
Trường hợp yêu cầu độc lập của ông D2 không được chấp nhận thì ông
đồng ý trả cho ông D2 số tiền 1.150.000.000đồng đã nhận tiền lãi theo mức
lãi suất 1.67%/1tháng từ thời điểm Hợp đồng được công chứng ngày 05/8/2022
5
cho đến khi xét xử sơ thẩm và bồi thường chi phí làm hàng rào và trồng cây theo
yêu cầu của ông D2 là 40.000.000đồng.
Ngoài ra, ông không có yêu cầu nào khác.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Thị Thảo X do Nguyễn Thị
Thu H đại diện trình bày:
X ông P vchồng, trong quá trình chung sống có tạo lập nhiều tài
sản từ nguồn thu nhập của cả hai, nhưng chủ yếu của ông P đi làm gửi về.
quen biết với ông P1 biết ông P1 nhu cầu chuyển nhượng thửa đất số
4445, diện tích 296,4m
2
tờ bản đồ số 3, đất tọa lạc ấp A, M, huyện T, tỉnh
Long An nên bà X ông P1 đã thỏa thuận hợp đồng chuyển nhượng thửa
đất nêu trên với giá 591.000.000đồng. Trong đó, giao tiền mặt cho ông P1
200.000.000đồng (không viết giấy giao nhận) và bằng hình thức chuyển
khoản 391.000.000đồng. Do ông P1 không tài khoản nên mượn tài khoản
của 03 người gồm: Ông Phùng Văn T, Nguyễn Thị Hồng P2, ông Văn K.
Khi mua đất, X thông báo cho chồng biết ông P đồng ý cho X
được đứng tên vì ông P đi làm xa không tiện làm các thủ tục đứng tên chung. Bà
X đã được Sở tài nguyên môi trường tỉnh L cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất thửa 4445 ngày 07/6/2021. Khi nhận chuyển nhượng đất, X đến
xem đất, thấy một phần đất được đổ nền, trồng một phần đất trống,
trụ sạn bao quanh đất. Bà X không làm gì trên đất vìX đi làm công nhân, còn
chồng bà X đi làm xa.
Sau đó, ông P1 nói với đất của cha mẹ cho nên ông muốn giữ lại.
X nói nếu ông P1 trả lại số tiền mua đất thì bà X trả lại đất. Không nhớ thời gian
nào, ông P1 hẹn bà X đến nhà trọ của ông P1 phường C, thành phT để
ông P1 trả lại tiền mua đất yêu cầu X giấy sang tên đất lại cho ông P1.
Lúc đó, có bà Lê Thị Thanh H1 cầm hồ sơ đến để cho hai bên ký tên tại nhà ông
P1 yêu cầu X đưa bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
H1. Do ông P1 không giao tiền như đã hứa nên X không đồng ý. Lúc đó,
X đi một mình bị ông P1 đe dọa nếu không sẽ không cho X đi về.
Đồng thời, X nghĩ thửa đất trên tài sản chung của cả 02 vợ chồng thì
một mình tên cũng không giá trị pháp ông P1 cũng không căn
cứ là đã giao tiền cho bà X nên bà X ký rồi đi về.
Sau khi về X điện thoại nhắn tin cho H1 yêu cầu H1 không
được làm thủ tục chuyển tên qua cho ông P1 nhưng H1 không bắt máy
không trả lời (Bà X cung cấp nội dung tin nhắn Zalo với H1 cho Tòa).
H1 do ông P1 kêu đến làm hồ chứ X không biết H1. Hợp đồng
chuyển nhượng ghi ngày 13/7/2021 được chứng thực tại Ủy ban nhân dân xã M
là bà H1 tự làm chứ bà X không có đến Ủy ban để ký tên, X chỉ tên tại
nhà ông P1 do bị ép buộc. X đã nhiều lần yêu cầu ông P1 trả tiền cho X
nếu đã lấy lại đất nhưng ông P1 không trả còn lời lẽ hăm dọa bằng tin
nhắn điện thoại (bà X đã cung cấp cho Tòa bản ghi âm nội dung tin nhắn
những chứng cứ này và clip việc ông P1 cầm dao hăm dọa bà X).
Như vậy, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa X ông
6
Nguyễn Hữu P1 ngày 13/7/2021 không tuân thủ các quy định của pháp luật.
Việc tên của X không tự nguyện do bị đe dọa, ép buộc; quyền s
dụng đất là tài sản chung của cả 02 vợ chồng nhưng không được sự đồng ý và
tên của ông P; việc tên không được thực hiện tại Ủy ban nhân dân nhưng
Ủy ban xã vẫn chứng thực; ông P1 chưa thực hiện nghĩa vụ trả tiền mua đất cho
bà X nên hợp đồng trên là trái pháp luật.
Tháng 10/2021, trong khi Tòa án đang thụ giải quyết tranh chấp thì ông
P1 lại chuyển nhượng thửa đất 4445 cho ông Phan Văn D2 (Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất lập tại Văn phòng C, quyển số 08/2022TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 5/8/2022), nên hợp đồng này không có giá trị pháp lý.
Nay X thống nhất toàn bộ nội dung yêu cầu khởi kiện của ông Trần
Quốc P. Ngoài ra, bà X không có yêu cầu nào khác.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Phan Văn D2 trình bày:
Ngày 05/8/2022, ông P1 vợ bà Trương Hoài D1 chuyển nhượng cho
ông quyền sử dụng thửa đất số 4445 (Bà D1 đã y quyền cho cho ông P1), giá
chuyển nhượng đất 1.150.000.000đồng. Ông đã giao đủ tiền cho ông P1. Khi
ông nhận chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 4445 thì ông P1 không
báo cho ông biết đất tranh chấp. Ông cũng không biết đất tranh chấp. Khi
mua đất, ông cũng có tìm hiểu, biết nguồn gốc đất là cha mẹ ông P1 cho ông P1,
có giấy tờ hợp lệ nên ông mới mua đất.
Ông P1 đã giao thửa đất số 4445 cho ông sử dụng sau ngày công chứng
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Ông đã cắm cọc, kêu Kobe múc
đất đắp nền, kéo lưới B40, trồng khoảng 100 cây mai con một số cây dừa.
Theo chứng thư định giá số 232392/CV-Viettin JSC ngày 07/6/2023 của Công
ty T2 Tín chỉ còn 56 cây mai loại E, giá 25.000đồng/1 cây ông thống nhất,
không ý kiến gì. Từ khi Tòa án tiến hành thẩm định đất ngày 26/4/2023 thì
ông không trồng thêm y ng như không xây dựng công trình kiến trúc nào
khác. Thửa đất số 4445 ông nhận chuyển nhượng có giấy tờ hợp pháp, đúng quy
định pháp luật nên ông D2 yêu cầu:
- Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn
Hữu P1, Trương Hoài D1 với ông D2 đối với thửa đất số 4445, tờ bản đồ số
3, diện tích 296,4m
2
đất tọa lạc ấp A, xã M, huyện T, tỉnh Long An đã được Văn
phòng C, quyển số 08/2022TP/CC-SCC/HĐGD ngày 05/8/2022 là hợp pháp.
- Ông Phan Văn D2 được quyền liên hệ với quan nhà nước thẩm
quyền để đăng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất nêu trên theo
quy định pháp luật.
- Trường hợp nếu yêu cầu độc lập của ông không được chấp nhận thì ông
yêu cầu ông Nguyễn Hữu P1, Trương Hoài D1 phải trả lại cho ông số tiền
1.150.000.000đồng đã nhận tiền lãi theo mức lãi suất 1.67%/1tháng từ thời
điểm công chứng hợp đồng là ngày 05/8/2022 cho đến khi xét xử sơ thẩm (là 18
tháng 26 ngày x 1.150.000.000 đồng x 1.67%/1 tháng = 362.206.300đồng).
7
Đồng thời yêu cầu ông P1, D1 bồi thường cho ông chi phí làm hàng rào,
Kobe múc đất và trồng cây với số tiền là 40.000.000đồng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Hồng P2 trình bày:
là em ruột của ông P1, không quen biết Thảo X, chỉ nghe ông P1
giới thiệu X là người yêu của ông P1, có lần bà đem đồ xuống cho ông P1 thì
gặp bà X ở đó. Hai người hình như sống chung với nhau. Lúc ông P1 quen X
trong thời gian ly thân với bà D1. X hỏi số tài khoản hay không
để X chuyển tiền rồi nhờ rút ra đưa lại cho ông P1. Khi chuyển tiền, X
chỉ nói nhờ rút ra giao lại cho ông P1 chứ không nói về việc mua đất của
ông P1, nếu có thì bà không dám nhận, vì đất này là của cha mẹ cho ông P1.
X chuyển tiền bao nhiêu lần số tiền cụ thể không nhớ nhưng sau
đó bà đã rút ra và đưa lại cho ông P1. Khi bà X chuyển tiền thì bà cũng nghe nói
ông P1 với X lúc đó sống chung làm ăn ghi đề. cũng không quan tâm
do đó chuyện của hai người, không liên quan gì. Do bận đi làm nên
xin vắng suốt quá trình giải quyết vụ án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Võ Văn K trình bày:
Ông bạn thphòng trọ kế bên phòng trọ ông P1, biết Thảo X
do bạn qua lại, ăn nhậu chung. Ông P1 Xương sống chung như vợ
chồng. Do ông P1 không sử dụng tài khoản ngân hàng nên mượn nhờ số
tài khoản của ông để chuyển tiền ghi số đề. Bà X chỉ chuyển cho ông 3 lần
40.000.000đồng (từ tháng 3 đến tháng 4 m 2020). Khi chuyển tiền, bà X nói
nhờ rút ra để giao lại cho ông P1 giùm chứ không có nói mua bán đất gì. Ông
cũng không quan tâm do đó chuyện của hai người ông không liên quan gì.
Do bận đi làm nên ông xin vắng suốt quá trình giải quyết vụ án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị Thanh H1 trình bày:
Lời trình bày của bà Thị Thảo X hoàn toàn không đúng. Từ trước tới
nay, bà chưa làm dịch vụ này, cũng không biết ông P1 X là ai cho nên
những lời trình bày của bà X là hoàn toàn không đúng sự thật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân xã M trình bày:
Ngày 13/7/2021, tổ tiếp nhận trả kết quả hồ hành chính của Ủy ban
nhân dân M tiếp nhận hồ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa bà Lê Thị Thảo X với ông Nguyễn Hữu P1 đối với Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất tài sản gắn liền với đất số DC 428615 vào sổ số CS 05393 do Sở
Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp ngày 07/06/2021, thửa đất số 4445, tờ bản
đồ số 3, tọa lạc ấp A, M, huyện T, tỉnh Long An. Sau khi tiếp nhận hồ sơ,
Công chức chuyên môn Địa chính kiểm tra tình trạng đất chuyển nhượng:
không tranh chấp, không nằm trong diện quy hoạch giải tỏa, đất đủ điều kiện
chuyển nhượng Công chức pháp - Hộ tịch kiểm tra tính pháp của văn
bản đảm bảo các bên tham gia hợp đồng chuyển nhượng tại thời điểm chứng
thực minh mẫn, nhận thức làm chủ được hành vi của mình, tự nguyện thỏa
thuận giao kết hợp đồng đã cùng /điểm chỉ vào hợp đồng chuyển nhượng
8
trước mặt ông Bùi Tấn Đ Công chức pháp - Hộ tịch tiếp nhận hồ sơ. Hợp
đồng giao dịch được thực hiện tại Ủy ban nhân dân M, số chứng thực 87,
quyển số 01/2021-SCT/HĐ,GD, ngày chứng thực 13/07/2021.
Việc chng thực hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được Ủy ban
nhân dân xã M thực hiện đúng theo trình tự thủ tục đảm bảo tính pháp lý của
văn bản cũng như tình trạng tự nguyện giữa các bên tham gia giao dịch theo
Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng
thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ chứng thực hợp đồng, giao
dịch và Thông số 01/2020/TT-BTP ngày 03/03/2020 quy định chi tiết
hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày
16/02/2015 về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng
thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn phòng C trình bày:
Ngày 05/8/2022, Công chứng viên thuộc Văn phòng C tiếp nhận yêu cầu
công chứng của ông Nguyễn Hữu P1, nội dung yêu cầu Công chứng viên thuộc
Văn phòng C chứng nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông
Nguyễn Hữu P1, Trương Hoài D1 (bà Trương Hoài D1 do ông Nguyễn Hữu
P1 làm đại diện theo ủy quyền) với ông Phan Văn D2. Phiếu yêu cầu công
chứng do người yêu cầu công chứng là ông Nguyễn Hữu P1 ký tên.
Công chứng viên tiếp nhận hồ kiểm tra giấy tờ tùy thân của các bên,
giấy tờ về tài sản tài liệu khác liên quan, xét thấy các bên đđiều kiện
để giao kết hợp đồng theo Điều 40, Điều 41 Luật Công chúng năm 2014. Mặt
khác, Văn phòng C không có công chứng hợp đồng chuyển nhượng giữa nguyên
đơn là ông Trần Quốc P với bị đơn là bà Lê Thị Thảo X và ông Nguyễn Hữu P1.
Do đó, Văn phòng C không liên quan đến nội dung tranh chấp nói trên giữa
nguyên đơn là ông Trần Quốc P với bị đơn là bà Thị Thảo Xông Nguyễn
Hữu P1.
Từ những căn cứ trên, Văn phòng C xin không tham gia các phiên họp, hòa
giải, xét xử trong suốt quá trình giải quyết vụ việc “tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là ông Trần Quốc P với bị đơn
Lê Thị Thảo X và ông Nguyễn Hữu P1.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phùng Văn T, Trương Hoài
D1 đã được Tòa án triệu tập nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt, không bản tự
khai, không tham gia phiên tòa và vắng mặt suốt quá trình giải quyết vụ án.
Tại Bản án dân sự thẩm số 20/2024/DS-ST ngày 01 tháng 3 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An, tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Quốc P đối với ông
Nguyễn Hữu P1 về việc Tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất”
- Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Thị Thảo X
ông Nguyễn Hữu P1 đối với thửa đất số 4445, tờ bản đsố 3, loại đất nông
9
thôn, tọa lạc ấp A, M, huyện T, tỉnh Long An được Ủy ban nhân dân M
chứng thực số 87, quyển số 01/2021-SCT/HĐ.GD ngày 13/7/2021 là vô hiệu.
- Không chấp nhận yêu cầu của ông Trần Quốc P về việc tuyên hủy Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Hữu P1 với ông Phan
Văn D2 lập tại Văn phòng C, quyển số 08/2022TP/CC-SCC/HĐGD ngày
5/8/2022 và không chấp nhận yêu cầu buộc ông Phan Văn D2 giao trả lại quyền
sử dụng thửa đất số 4445, diện tích 296,4m
2
tờ bản đồ số 3, loại đất nông
thôn, tọa lạc ấp A, xã M, huyện T, tỉnh Long An.
- Buộc ông Nguyễn Hữu P1 bồi thường cho ông Trần Quốc P số tiền
776.000.000đồng giá trị quyền sử dụng thửa đất số 4445, diện tích 296,4m
2
tờ
bản đồ số 3, loại đất nông thôn, tọa lạc ấp A, M, huyện T, tỉnh Long An
(Theo chứng thư định giá số 213.2022.VT.HS ngày 01/3/2022 của Công ty cổ
phần T1).
2. Chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Phan Văn D2.
- Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Hữu P1,
Trương Hoài D1 với ông Phan Văn D2 đối với thửa đất số 4445, diện tích
296,4m
2
, tờ bản đồ số 3, loại đất nông thôn, tọa lạc ấp A, M, huyện T, tỉnh
Long An được công chứng tại Văn Phòng C số 6059, quyển số 08/2022TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 05/8/2022 có hiệu lực.
- Ông Phan Văn D2 được quyền liên hệ với quan nhà nước thẩm
quyền để đăng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất số 4445, tờ bản
đồ số 3, diện tích 296,4m
2
loại đất nông thôn, tọa lạc ấp A, M, huyện T,
tỉnh Long An theo quy định pháp luật.
3. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, định giá 11.500.000đồng. Ông
Nguyễn Hữu P1 phải chịu toàn bộ, do ông Trần Quốc P đã nộp tạm ứng trước
nên ông Nguyễn Hữu P1 nghĩa vụ hoàn lại cho ông Trần Quốc P
11.500.000đồng.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Nguyễn Hữu P1 phải chịu 35.040.000đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Ông Trần Quốc P phải chịu 300.000đồng án phí dân sự thẩm, nhưng
được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí ông P đã nộp 12.300.000đồng theo
biên lai thu số 0002074 ngày 24/11/2021 5.550.000đồng theo biên lai thu số
0002555 ngày 12/7/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủ Thừa, tỉnh
Long An. H2 lại cho ông Trần Quốc P 17.550.000đồng tiền tạm ứng án phí còn
thừa.
Các đương sự còn lại không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
5. Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho
đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn
phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy
định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
10
Ngoài ra án thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo hướng dẫn thi hành
án.
Ngày 07/3/2024, ông Trần Quốc P Thị Thảo X kháng cáo một
phần bản án thẩm, đề nghị sửa bản án thẩm theo hướng hủy hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Hữu P1 với ông Phan Văn
D2 đối với thửa đất số 4445, tờ bản đồ số 3, tại ấp A M, huyện T, tỉnh Long
An được công chứng số 6509, quyển số 08/2022TP/CC-SCC/HĐGD ngày
05/8/2022. Buộc ông D2 phải giao trả thửa đất 4445 cho ông P.
Ngày 29/3/2024 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An ban
hành Quyết định kháng nghị số 42/QĐ-VKS-DS, kháng nghị toàn bộ bản án
thẩm của Tòa án nhân dân huyện Thủ Thừa.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện, người kháng cáo vẫn giữ nguyên
yêu cầu khởi kiện yêu cầu kháng cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Long An vẫn giữ nguyên Quyết định kháng nghị.
Phần tranh luận:
Bà D là người đại diện theo ủy quyền của ông P trình bày:
Bản án thẩm nhận định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa ông P1 với bà X là hợp pháp, do đó xác định thửa đất 4445 là tài sản chung
của vợ chồng ông P, X. Ngày 13/7/2021 một mình X tự ý chuyển nhượng
thửa đất này cho ông P1 mà không sự đồng ý của ông P, do đó ông P khởi
kiện yêu cầu vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa X với
ông P1, vụ án đã được Tòa án nhân dân huyện ThThừa thụ lý, hòa giải, định
giá và xem xét thẩm định tại chỗ ông P1 đều tham gia. Tuy nhiên, ngày
05/8/2022 (sau khi Tòa án thụ ký, hòa giải) ông P1 cố tình chuyển nhượng thửa
đất trên cho ông D2 trong khi đất đang tranh chấp là trái quy định của pháp luật,
ông D2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên hợp đồng này
chưa có hiệu lực và ông D2 không phải là người ngay tình theo Điều 133 Bộ luật
dân sự năm 2015. Do đó, án thẩm công nhận hiệu lực của hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa ông P1 với ông D2 là trái với quy định của pháp
luật. Ông P1 không kháng cáo bản án thẩm tức đồng ý với nhận định
quyết định của bản án thẩm. vậy, đề nghị chấp nhận kháng cáo của ông P
sửa bản án thẩm, hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông
P1 với ông D2, buộc vợ chồng ông D2 giao trả thửa đất 4445 cho ông P và bà X.
Luật sư L là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông P1 trình bày:
Ông P1 trình bày sống chung nvợ chồng với X quá trình chung
sống hai người làm thầu đề, X chuyển tiền cho ông P1 để ông P1 chung
tiền cho những người trúng đề, số tiền X chuyển giao cho ông P1 tiền
chung đề chứ không việc ông P1 chuyển nhượng thửa đất 4445 cho X.
Việc ông P1 hợp đồng chuyển nhượng thửa đất 4445 cho X do lúc đó
vợ chồng ông P1 và bà D1 đang mâu thuẫn nhau, ông P1 sợ khi ly hôn phải chia
tài sản cho bà D1 nên mới nhờ X đứng tên giùm thửa đất 4445 thông qua hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Tuy nhiên do con chung của ông P1
11
D1 chưa đủ 12 tháng tuổi nên ông P1 không ly hôn với D1 được. Sau khi
X được đứng tên quyền sử dụng đất thì không có việc ông P1 giao đất cho bà
X (vì X chỉ đứng tên giùm), thửa đất 4445 vẫn do cha mẹ của ông P1 sử
dụng. Số tiền X chuyển khoản cho ông P1 rất nhiều lần, thậm chí sau khi
X chuyển nhượng lại quyền sử dụng đất cho ông P1 thì X vẫn còn chuyển
khoản cho ông P1, việc chuyển tiền của X cho ông P1 tiền chung đề,
không phải tiền chuyển nhượng đất, nếu tiền chuyển nhượng đất thì không
phù hợp với phong tục tập quán mua bán đất. Quá trình giải quyết vụ án X
trình bày bị ông P1 đe dọa, ép buộc ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất cho ông P1 tại nhà trọ, nhưng X không cung cấp được chứng cứ bị đe
dọa, ép buộc. Hợp đồng này được chứng thực tại Ủy ban nhân dân M,
do đó không việc ông P1 đe dọa ép buộc X. Do X chuyển trả lại thửa
đất này cho ông P1 nên không việc ông P1 giao trả tiền chuyển nhượng đất
cho bà X.
Nguyên đơn cho rằng ông P1 không kháng cáo tức đồng ý với bản án
thẩm, tuy nhiên sau khi xét xử thẩm ông P1 bị tạm giam do liên quan đến vụ
án hình sự nên khó khăn trong việc kháng cáo bản án thẩm, hơn nữa thửa đất
4445 ông P1 đã chuyển nhượng cho ông D2, ông D2 đã trả đủ tiền và đã nhận
đất sử dụng nên ông P1 không kháng cáo. Từ những lý do trên đề nghị Hội đồng
xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Bà H là người đại diện theo ủy quyền của bà X trình bày:
Ông P1 cho rằng bà X ông P1 chung sống nvợ chồng hoàn toàn
không đúng, X hai con nhỏ X đi làm công nhân thì không việc
chung sống với ông P1. Nếu và Xương sống chung như vợ chồng với ông P1 thì
tại sao X không giao tiền trực tiếp cho ông P1 lại chuyển khoản cho ông
P1? Ông P1 và luật của ông P1 cho rằng giữa X ông P1 làm giao
dịch tiền bạc thông qua việc làm thầu đề, nhưng không chứng cứ chứng
minh, cấp thẩm cũng đã xác minh tại địa phương thì hoàn toàn không việc
thầu đề, đánh đề. Số tiền 390.000.000đồng X giao cho ông P1 thông qua
chuyển khoản cho bà P2, ông K, ông T 200.000.000đồng X giao tiền mặt
cho ông P1 nhưng không làm giấy, tiền nhận chuyển nhương đất, không liên
quan gì đến việc thầu đề chung đề. Nếu thật sự bà X không giao tiền cho ông P1
thì không có việc ông P1 ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà
X. Ông P1 trình bày do vợ chồng ông P1 mâu thuẫn, ly hôn sợ chia tài sản cho
D1 nên nhờ X đứng tên dùm, đây lời trình bày một phía của ông P1,
không chứng cứ chứng cứ chứng minh, hiện tại quan hệ hôn nhân giữa ông
P1 D1 vẫn đang tồn tại, do đó lời trình bày của ông P1 hoàn toàn bịa đặt.
Việc bà X chuyển tiền nhiều lần cho ông P1 do ông P1 và bà X tự thỏa thuận,
pháp luật không cấm và cũng không trái đạo đức xã hội. Đối với số tiền
200.000.000đồng X giao cho ông P1 mặc không biên bản giao nhận
nhưng tại tin nhắn Zalo ngày 11/10/2021 giữa X với ông P1 thì ông P1 đồng
ý hoàn trả cho bà X 200.000.000đồng, do đó có đủ căn cứ xác định bà X đã giao
đủ tiền chuyển nhượng thửa đất 4445 cho ông P1. Quá trình giải quyết vụ án
ông P1 không phản tố và không kháng cáo điều này chứng tỏ ông P1 mặc nhiên
12
thừa nhận việc chuyển nhượng thửa đất 4445 cho bà X. Việc X chuyển
nhượng lại thửa đất 4445 cho ông P1 trong tình trạng bị đe đọa, ép buộc. Chứng
cứ chứng minh cho việc ông P1 đe dọa X thể hiện tin nhắn Zalo đoạn
video clip ông P1 cởi trần cầm dao rượt đuổi X, không cho X về nếu như
X không vào hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được H1
làm dịch vụ soạn thảo sẵn, hơn nữa X nghĩ chỉ một mình X mà không
ông P chồng bà X thì không thể sang tên cho ông P1 được, vậy sau khi
xong về nhà X nhắn tin zalo cho H1 người làm dịch vụ không
được ra giấy cho ông P1, nhưng H1 không trả lời chặn tin nhắn của X.
Thửa đất 4445 tài sản chung của X ông P1, chmình X không
đúng quy định của pháp luật nên án sơ thẩm tuyên hiệu hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa bà X với ông P1 là có căn cứ. Đối với hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông P1 với ông D2, thống nhất với
lời trình bày của bà D là người đại diện theo ủy quyền của ông P.
Ông D2 không tranh luận: Ông D2 chỉ trình bày việc ông mua thửa đất
4445 của ông P1 là hợp pháp có giấy tờ đầy đủ hợp lệ, không biết đất tranh chấp
nên yêu cầu được nhận đất sử dụng.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:
Về chấp hành pháp luật: Đơn kháng cáo của ông P, X Quyết định
kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An trong thời
hạn quy định của pháp luật nên vụ án được xét xử theo trình tự phúc thẩm. Kể từ
khi thụ vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án Thẩm phán,
Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng những quy định của Bộ luật
tố tụng dân sự, những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng pháp luật.
Về việc giải quyết vụ án:
Xét kháng cáo của ông P, X Quyết định kháng nghị số 42/QĐ-VKS-
DS ngày 29/3/2024 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An:
Án thẩm đã nhận định quyền sử dụng thửa đất số 4445 là tài sản chung
của vợ chồng ông P X phù hợp nhưng lại buộc ông P1 bồi thường giá tr
đất cho ông P số tiền 776.000.000đồng chưa đúng, chưa đảm bảo quyền lợi
của bà X.
Về án phí: Bản án thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông
P tuyên hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà X với ông
P1 nhưng không buộc ông P1 chịu 300.000đồng án phí không đúng quy định
của pháp luật. Đồng thời, bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu độc lập của ông D2
công nhận hiệu lực của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông
P1, D1 với ông D2 nhưng không buộc ông P1 chịu 300.000đồng án phí
không đúng pháp luậ, do đó đề nghị sửa án phí dân sự sơ thẩm.
Về việc thu thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ:
Quá trình giải quyết tại cấp phúc thẩm ngày 31/7/2024 Toà án lấy lời
khai của ông P1, ông P1 trình bày “do X đòi lại tiền đề này 200 triệu nên
13
tôi đồng ý trcho X chứ không liên quan hợp đồng chuyển nhượng đất như
X trình bày”, n vậy cơ sở xác định ông P1 nhận của X
200.000.000đồng, ông P1 cho rằng đây tiền chung số đề, nhưng không
chứng cứ chứng minh tiền chung số đề. vậy, căn cứ xác định
200.000.000đồng ông P1 đã nhận là tiền từ hợp đồng chuyển nhượng.
Đối với stiền X chuyển khoản, ông P1 thừa nhận nhận của X
391.000.000đồng thông qua hình thức chuyển khoản, nhưng cũng cho rằng đây
tiền chung số đề, không phải tiền X nhận chuyển nhượng thửa đất 4445.
Cũng tương tự với nhận định trên ông P1 không có chứng cứ chứng minh là tiền
chung số đề nên chấp nhận lời trình bày của bà X là tiền chuyển nhượng đất. Về
thời gian chuyển khoản thời gian kết hợp đồng còn điểm bất cập không
phù hợp thực tế khách quan, X cho rằng đây sự tnguyện thỏa thuận của
các bên, pháp luật không cấm.
Phía X trình bày do ông P1 ép X chuyển nhượng lại trên cho ông
P1, nên X nói với ông P1 nếu chuyển nhượng lại thì ông P1 phải trả tiền
lại cho bà X, việc bà X tên chuyển nhượng lại thửa đất 4445 cho ông P1 là bị
ông P1 đe dọa, ép buộc. Đối chiếu với nội dung Trích xuất camera trong hồ
thể hiện hình ảnh ông P1 cởi trần cầm dao chạy dọc hành lang. Chứng cứ
này phù hợp lời trình bày của bà X ông P1 kêu xuống chỗ ông trọ để trả
200.000.000đồng nhưng anh của cùng xuống thì ông P1 không trả mà
còn cầm dao rượt đuổi. Do đó, X trình bày bị đe dọa, ép buộc hợp đồng
chuyển nhượng đất là có căn cứ.
Về áp dụng pháp luật giải quyết:
Đối với yêu cầu độc lập của ông Phan Văn D2 cấp sơ thẩm đã nhận định và
áp dụng pháp luật để giải quyết chưa phù hợp với quy định của pháp luật. Bởi lẽ,
ngày 05/8/2022, ông P1 vD1 đã chuyển nhượng cho ông D2 thửa đất
số 4445 trong khi thửa đất đang bị tranh chấp. Tòa án nhân dân huyện Thủ Thừa
thụ vụ án theo Thông báo thụ số 138/2021/TLST-DS ngày 29/11/2021.
Ngày 30/11/2021, Tòa án đã tống đạt thông báo thụ trên cho ông P1. Trong
quá trình giải quyết vụ án, ông P1 cũng có tham gia phiên hòa giải ngày
16/6/2022. Như vậy thời điểm này ông P1 biết thửa đất 4445 đang bị tranh
chấp nhưng ngày 05/8/2022, ông P1 cùng bà D1 lại ký hợp đồng chuyển nhượng
thửa đất 4445 cho ông D2 vi phạm Điều 188 Luật đất đai năm 2013. Bản án
thẩm tuyên công nhận hiệu lực của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất giữa ông Nguyễn Hữu P1, Trương Hoài D1 ông Phan Văn D2 đối với
quyền sử dụng thửa đất s4445 D2 được quyền liên hệ cơ quan nhà nước
thẩm quyền đđăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 4445
chưa đúng với quy định của pháp luật. Hiện nay, ông D2 chưa được đứng tên
quyền sử dụng đất. Như vậy ông D2 không phải người ngay tình theo Điều
133 Bộ luật Dân s2015. Do đó đề nghị sửa bản án thẩm không chấp nhận
yêu cầu độc lập của ông D2.
Về giải quyết hậu quả hợp đồng hiệu: Ông D2 trình bày trường hợp nếu
yêu cầu của ông không được chấp nhận thì ông yêu cầu ông Nguyễn Hữu P1,
14
Trương Hoài D1 phải trả lại cho ông số tiền 1.150.000.000đồng đã nhận tiền
lãi theo mức lãi suất 1.67%/1tháng từ thời điểm công chứng hợp đồng ngày
05/8/2022 cho đến khi xét x thẩm (là 18 tháng 26 ngày x 1.150.000.000
đồng x 1.67%/1 tháng = 362.206.300đồng). Thấy rằng theo quy định về giải
quyết hậu quả hợp đồng hiệu thì xét lỗi tính thiệt hại để buộc lỗi tính
gtrị để hoàn trả, tuy nhiên trong trường hợp này không thiệt hại xảy ra (do
thửa đất chỉ giá 776.000.000đồng) nên ông P1 chỉ hoàn trả cho ông D2
1.150.000.000đồng. Đối với yêu cầu tính lãi của ông D2 thì ông P1 cũng đồng ý,
đây là sự thỏa thuận của ông D2 ông P1, riêng bà D1 không ý kiến về vấn
đề này, do đó đnghị Tòa án ghi nhận sự thỏa thuận giữa ông D2 ông P1
buộc ông P1 trả ông D2 số tiền 362.206.300đồng.
Ngoài ra ông D2 còn yêu cầu ông P1, bà D1 bồi thường cho ông D2 chi phí
đầu trồng cây trên đất với số tiền 40.000.00đồng. Thấy rằng hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông P1 và ông D2 bị vô hiệu và thửa đất
này được giao trả cho ông P X nên phần đầu này ông P X người
thụ hưởng. Tại phiên toà phúc thẩm, người đại diện của ông P X đồng ý
hoàn trả lại cho ông D2 40.000.000đồng nên cần ghi nhận.
Bởi các lẽ trên, đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận Kháng cáo của ông
Trần Quốc P Thị Thảo X. Chấp nhận Quyết định kháng nghị số
42/QĐ-VKS-DS ngày 29/3/2024 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Long An. Căn cứ Khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, sửa bản
án sơ thẩm như đã phân tích trên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của ông P, X Quyết định
kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An trong thời
hạn quy định của pháp luật nên vụ án được xét xử theo trình tự phúc thẩm.
Đương sự vắng mặt đã được triệu tập hợp llần thứ hai. Căn cứ Điều 296
Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Xét kháng cáo của ông P Thảo X kháng nghị của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An. Xét thấy:
[2.1] Về Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 26/3/2021 giữa
ông Nguyễn Hữu P1 với Thị Thảo X đối với thửa đất số 4445, tờ bản đồ
số 3, tại ấp A, xã M, huyện T, tỉnh Long An, được Ủy ban nhân dân xã M chứng
thực ngày 26/3/2021. Thảo X đã được Sở tài nguyên môi trường tỉnh L
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 07/6/2021. X ông P trình
bày nhận chuyển nhượng thửa đất trên với giá 510.000.000đồng, trong đó X
chuyển khoản cho ông P1 thông qua số tài khoản của ông Phùng Văn T,
Nguyễn Thị Hồng P2, ông Văn K số tiền 391.000.000đồng và giao cho ông
P1 200.000.000đồng tiền mặt, nhưng không lập biên nhận. Ông P1 trình bày
không nhận s tiền 200.000.000đồng, tuy nhiên tại tin nhắn Zalo ngày
11/10/2021 giữa X ông P1, ông P1 nhắn "R đó đúng 1 tháng tao trả. Tao
nge mày nói gì nữa k dc Với tao....Dc r may khỏi nói gi nua”. Bà X trả lời “đúng
15
200tr nhe m”. Căn cứ vào nội dung tin nhắn zalo thì ông P1 hứa đúng 1 tháng sẽ
trả cho X 200.000.000đồng. Mặt khác, căn cứ vào biên bản lấy lời khai đối
với ông P1 ngày 31/7/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An, ông P1 trình bày
“nội dung tin nhắn zalo ngày 11/10/2021 là do bà X đòi lại số tiền đề
200.000.000đồng nên tôi đồng ý trả cho X chứ không liên quan đến Hợp
đồng chuyển nhượng đất”. Do đó, căn cứ xác định ông P1 nhận của X
200.000.000đồng.
Ông P1 cho rằng số tiền 391.000.000đồng X chuyển khoản cho ông P1
và số tiền 200.000.000đồng ông P1 hứa đúng 1 tháng sẽ trả cho bà X không phải
tiền chuyển nhượng đất ông P1 bà X làm thầu đề, số tiền X chuyển
khoản giao cho ông P1 để chung cho những người trúng đề. Lời trình bày
của ông P1 luật sư bảo vệ cho ông P1 không được X thừa nhận. Quá trình
giải quyết vụ án ông P1 không cung cấp được bất kỳ tài liệu nào thể hiện số tiền
591.000.000đồng X chuyển khoản và giao cho ông P1 tiền liên quan đến
việc thầu đề hoặc liên quan đến bất kỳ giao dịch nào khác. Như vậy, X đã
giao đủ cho ông P1 stiền 591.000.000đồng tiền nhận chuyển nhượng thửa
đất 4445.
Ông P1 và luật bảo vệ cho ông P1 cho rằng, ông P1 chnhờ X đứng
tên giùm, nhưng không cung cấp được bất kỳ tài liệu nào chứng minh ông P1
nhờ X đứng tên giùm thửa đất 4445. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất ngày 26/3/2021 giữa ông P1 với bà X được lập văn bản, đã được chứng
thực tại Ủy ban nhân dân xã M ngày 26/3/2021 phù hợp với Điều 117, 501, 502
Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai năm 2013, thời điểm
hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất thửa 4445 không bị tranh chấp.
Bản án thẩm công nhận hiệu lực của hợp đồng này căn cứ. Sau khi xét
xử thẩm tòa án cấp thẩm đã tống đạt (niêm yết) bản án thẩm theo đúng
quy định của pháp luật nhưng ông P1 và bà D1 không kháng cáo.
[2.2] Về Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 13/7/2021 giữa
Lê Thị Thảo X với ông Nguyễn Hữu P1 đối với thửa đất 4445. Hợp đồng này
cũng được lập văn bản và được Ủy ban nhân dân xã M chứng thực ngày
13/7/2021. Bà X cho rằng bị ông P1 ép buộc, đe dọa, X nghĩ chỉ có một mình
tên chuyển nhượng thì hợp đồng không hiệu lực, nên X không trình
báo với chính quyền địa phương chỉ nhắn tin qua Z cho người làm hồ
Thị Thanh H1 vào ngày 22/7/2021 ngày 05/8/2021, nội dung tin nhắn
X nói không được sang tên qua cho ông P1 nhưng H1 không phản
hồi. Xét thấy, X cung cấp chứng cứ là nội dung tin nhắn với H1, tin nhắn
bị ông P1 đe dọa bằng dao và đoạn video clip ông P1 cởi trần cầm dao rượt đuổi.
Mặt khác, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa X với ông P1
thửa 4445, ghi giá chuyển nhượng là 100.000.000đồng và việc giao nhận số tiền
nêu trên do hai bên tự thực hiện chịu trách nhiệm trước pháp luật. Quá trình
giải quyết vụ án bà X và ông P1 trình bày thống nhất là không có việc ông P1 trả
tiền chuyển nhượng đất cho X. Do đó, X trình bày bông P1 đe dọa, ép
buộc khi hợp đồng chuyển nhượng lại thửa đất 4445 cho ông P1 sở.
Mặt khác, quyền sử dụng đất thửa 4445 được hình thành trong thời kỳ hôn nhân
16
hợp pháp giữa ông P và bà X nên đây là tài sản chung của vợ chồng ông P và bà
X. Ngày 13/7/2021, chỉ một mình X Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất thửa 4445 cho ông P1 mà không có sự đồng ý của ông P là không đúng
quy định tại Điều 29, 33, 35 Luật hôn nhân gia đình, hiện nay ông P không
đồng ý chuyển nhượng thửa đất 4445 cho ông P1. Do đó, Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 13/7/2021 giữa X với ông P1 đối với thửa
4445 bhiệu theo quy định tại các điều 116, 117, 122, 127 Bộ luật dân sự
năm 2015, Điều 29, Điều 35 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
Căn cứ hướng dẫn tại điểm 2, mục II Công văn số 64/TAND-TC-PC ngày
03/4/2019 của Tòa án nhân dân Tối cao, không cần tuyên hủy giấy chứng nhận
cấp cho người nhận chuyển nhượng, đương sự được quyền khai đăng để
được cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc điều chỉnh lại giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đã được cấp. Cơ quan Tài nguyên và Môi trường căn cứ
vào bản án, quyết định của Tòa án để điều chỉnh biến động hoặc cấp lại Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho phù hợp với kết quả giải quyết của Tòa án.
Do giữa ông P1 X không việc giao nhận số tiền chuyển nhượng
thửa đất 4445 các bên không yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng
hiệu. Căn cứ Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Tòa án không xem xét giải
quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu này.
[2.3] Về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn
Hữu P1 với ông Phan Văn D2 ngày 05/8/2022 đối với thửa đất 4445 được Văn
phòng C công chứng số 6509, quyển số 08/2022TP/CC-SCC/HĐGD ngày
05/8/2022. Việc chuyển nhượng thửa đất 4445 giữa ông P1 với ông D2 được
kết sau thời điểm Tòa án thụ giải quyết vụ án, Tòa án thụ vụ án ngày
29/11/2021. Ngày 30/11/2021 Tòa án đã tống đạt thông báo thụ trên cho ông
P1, quá trình giải quyết vụ án ông P1 tham gia, chứng kiến việc Tòa án cấp
thẩm tiến hành định giá xem xét thẩm định tại chỗ đối với thửa đất 4445
ngày 25/01/2022, tham gia phiên hòa giải ngày 16/6/2022 (bút lục 396-399, 406-
408, 22). Như vậy, ông P1 đã biết thửa đất 4445 đang bị ông P tranh chấp,
nhưng ngày 05/8/2022 (sau gần 8 tháng kể từ ngày Tòa án thụ vụ án) ông P1
lại chuyển nhượng thửa đất 4445 cho ông Phan Văn D2. Như vậy, việc ông P1
chuyển nhượng thửa đất 4445 cho ông D2 khi đất đang tranh chấp là trái với quy
định tại điểm b khoản 1 Điều 188 Luật đất đai năm 2013, do đó hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông P1 với ông D2 đối với thửa 4445
không đủ điều kiện để hiệu lực theo quy định tại khoản 1 Điều 117 Bộ luật
dân sự năm 2015. Mặt khác, ông D2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền s
dụng đất/chưa được cập nhật vào sđịa chính đối với thửa 4445. Do đó, hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên chưa đảm bảo điều kiện
hiệu lực theo quy định tại Điều 503 Bộ luật dân sự năm 2015. Ông D2 không
thuộc trường hợp người thứ ba ngay tình theo Điều 133 Bộ luật dân sự năm
2015. Do đó, chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Long An chấp nhận một phần kháng cáo của ông P và X, tuyên bố vô
17
hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông P1 với ông D2 được
xác lập ngày 05/8/2022 đối với thửa đất 4445. Buộc ông D2, Á phải giao trả
cho ông P và bà X thửa đất 4445.
[2.4] Về giải quyết hậu quả của hợp đồng hiệu: Ông P1 biết thửa đất
đang bị tranh chấp, nhưng không thông báo cho ông D2 biết về tình trạng pháp
của thửa đất nên ông D2 không thể biết được đất đang bị tranh chấp. Do đó,
lỗi dẫn đến hợp đồng bị hiệu hoàn toàn thuộc về ông P1. Ông P1 ông D2
trình bày thống nhất giá chuyển nhượng thửa đất 1.150.000.000đồng và ông
D2 đã trả đủ tiền cho ông P1. Căn cứ chứng thư thẩm định giá số
213.2022.VT.HS ngày 01/3/2022 của Công ty cổ phần T1 thì giá trị thửa đất
4445 776.000.000đồng. Căn cứ vào hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao
thì thiệt hại bao gồm khoản tiền bên mua đã cải tạo, đầu tư trên đất và khoản tiền
chênh lệch giữa giá trị quyền sử dụng đất do các bên thoả thuận với giá trị quyền
sử dụng đất tại thời điểm xét xử thẩm hoặc các thiệt hại khác. Do giá trị
quyền sử dụng đất tại thời điểm xét xử thấp hơn giá trị quyền sử dụng đất do các
bên thỏa thuận, do đó không có thiệt hại xảy ra do chênh lệch giá quyền sử dụng
đất đối với ông D2.
Quá trình giải quyết vụ án ông D2 trình bày sau khi nhận chuyển nhượng
ông D2 đã đầu trên đất (làm hàng rào, thuê kobe múc đất, trồng cây) với số
tiền 40.000.000đồng. Do chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông P X,
buộc ông D2 Á phải giao trả thửa đất 4445 cho ông P, X nên ông P
X là người được hưởng lợi từ việc đầu trên đất của ông D2. Tại phiên tòa
phúc thẩm ông P, X đồng ý thối hoàn cho ông D2 số tiền 40.000.000đồng.
Xét thấy, đây sự tự nguyện của các đương sự nên được hội đồng xét xử ghi
nhận. Buộc ông P và X hoàn trả cho ông D2 số tiền 40.000.000đồng. Đối với
yêu cầu của ông D2 yêu cầu ông P1 phải hoàn trả 1.150.000.000đồng và tiền lãi
theo mức lãi suất 1,67%/tháng từ ngày 05/8/2022 đến ngày xét xử sơ thẩm với
số tiền 362.206.300đồng. Tại phiên tòa ngày 23/11/2023 (bút lục 424, 425)
ông P1 đồng ý hoàn trả cho ông D2 số tiền trên. Xét thấy, đây sự tnguyện
thỏa thuận của các đương sự, không trái pháp luật đạo đức xã hội nên Hội
đồng xét xử ghi nhận. Căn cứ khoản 1 Điều 131 Bộ luật dân sự năm 2013, buộc
ông P1 phải hoàn trả cho ông D2 số tiền là 1.512.206.300đồng.
[2.5] Về trách nhiệm liên đới của D1 vợ ông P1: Ông P1 trình bày sau
khi nhận số tiền 1.150.000.000đồng từ ông D2 thì ông P1 đưa cho D1
400.000.000đồng để nuôi con. Quá trình giải quyết vụ án D1 không đến Tòa
án cũng không văn bản trình bày ý kiến hay phản hồi về vấn đnày.
Hiện nay quan hệ hôn nhân giữa ông P1 D1 vẫn còn tồn tại, căn cứ các
điều 30, 33, 37 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, buộc D1 nghĩa vụ
liên đới với ông P1 trả tiền cho ông D2 số tiền 1.150.000.000đồng. Riêng sự
thỏa thuận về việc trả tiền lãi giữa ông P1 và ông D2 không có ý kiến của bà D1
nên không buộc D1 phải liên đới với ông P1 hòan trả số tiền
362.206.300đồng.
18
[2.6] Từ những nhận định trên, chấp nhận kháng cáo của ông P, X, chấp
nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An, chấp
nhận đề nghị của kiểm sát viên sửa bản án sơ thẩm.
[3] Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông P1 phải chịu 600.000đồng án phí dân sự thẩm không giá ngạch
đối với yêu cầu hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà X
với ông P1, hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông P1
với ông D2.
Ông P1 D1 phải chịu án phí dân sự thẩm giá ngạch đối với số
tiền phải hoàn trả cho ông D2 1.150.000.000đồng. Ông P1 phải chịu án phí dân
sự sơ thẩm trên số 362.206.300đồng phải hoàn trả cho ông D2.
Ông P X phải liên đới chịu án phí dân sự thẩm đối với số tiền
40.000.000đồng hoàn trả cho ông D2.
Ông D2 phải chịu 300.000đồng án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu công
nhận hiệu lực của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông P1 với
ông D2 không được chấp nhận.
[4] Về chi ptố tụng: tổng cộng 11.500.000đồng, do yêu cầu khởi kiện
của ông P được chấp nhận nên ông P1 phải chịu, số tiền này ông P đã nộp tạm
ứng và chi xong, do đó buộc ông P1 phải hoàn trả cho ông P 11.500.000đồng.
[5] Về án phí dân sự phúc thẩm: do yêu cầu kháng cáo của ông P X
được chấp nhận nên ông P X không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm,
hoàn trả cho ông P và bà X mỗi người 300.000đồng tạm ứng án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Trần Quốc P và bà Lê Thị Thảo X;
Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 42/QĐ-VKS-DS, ngày 29/3/2024 của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An.
Sửa bản án dân sự thẩm số 20/2024/DS-ST ngày 01 tháng 3 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An.
Căn cứ các điều 5, 26, 35, 39, 147, 148, 157, 165, 227, 228, 296 Bộ luật T
tụng dân sự năm 2015; các điều 116, 117, 122, 127, 131, 133, 288, 500, 503 Bộ
luật dân sự năm 2015, Điều 167, 188 Luật đất đai năm 2013, các điều 29, 30, 33,
35, 37 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Điều 26, Điều 27, Điều 29, điểm đ
khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 năm 2016 của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
19
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Quốc P đối với ông Nguyễn
Hữu P1 về việc “Tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
1.1. hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất giữa Thị
Thảo X với ông Nguyễn Hữu P1 đối với thửa đất số 4445, tờ bản đồ số 3, loại
đất nông thôn, tọa lạc ấp A, xã M, huyện T, tỉnh Long An được Ủy ban nhân
dân xã M chứng thực số 87, quyển số 01/2021-SCT/HĐ.GD ngày 13/7/2021.
1.2. Vô hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông
Nguyễn Hữu P1 với ông Phan Văn D2 được Văn phòng C, quyển số
08/2022TP/CC-SCC/HĐGD ngày 5/8/2022 đối với thửa đất số 4445, diện tích
296,4m
2
tờ bản đồ số 3, loại đất nông thôn, tọa lạc ấp A, M, huyện T, tỉnh
Long An.
1.3. Buộc ông Phan Văn D2 và Lưu Kim Á giao trả lại quyền sử dụng
thửa đất số 4445, diện tích 296,4m
2
tờ bản đồ số 3, loại đất nông thôn, tọa lạc
ấp A, xã M, huyện T, tỉnh Long An cho ông Trần Quốc P và bà Lê Thị Thảo X.
2. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Phan Văn D2 về việc công
nhận hiệu lực của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông
Nguyễn Hữu P1 với ông Phan Văn D2 được Văn phòng C, quyển số
08/2022TP/CC-SCC/HĐGD ngày 5/8/2022 đối với thửa đất số 4445, diện tích
296,4m
2
tờ bản đồ số 3, loại đất nông thôn, tọa lạc ấp A, M, huyện T, tỉnh
Long An.
3. Buộc ông Nguyễn Hữu P1 và Trương Hoài D1 liên đới hoàn trả cho
ông Phan Văn D2 và bà Lưu Kim Á số tiền là 1.150.000.000đồng.
4. Buộc ông Nguyễn Hữu P1 phải hoàn trả cho ông Phan Văn D2
Lưu Kim Á số tiền 362.206.300đồng.
5. Buộc ông Trần Quốc P và bà Thị Thảo X phải hoàn trả cho ông ông
Phan Văn D2Lưu Kim Á số tiền 40.000.000đồng.
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải
chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định
tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
6. Ông Trần Quốc P và Thị Thảo X được quyền liên hệ với quan
nhà nước thẩm quyền để lập thủ tục khai, đăng cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, cập nhật, chỉnh lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp
đối với thửa đất số 4445, diện tích 296,4m
2
tờ bản đồ số 3, loại đất nông thôn,
tọa lạc ấp A, xã M, huyện T, tỉnh Long An.
7. Ông Nguyễn Hữu P1, Trương Hoài D1, ông Phan Văn D2, Lưu
Kim Á nghĩa vụ nộp bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất
số 4445, diện tích 296,4m
2
tờ bản đồ số 3, loại đất nông thôn, tọa lạc p A,
M, huyện T, tỉnh Long An cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất để thu hồi, điều chỉnh, cấp lại giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất theo quyết định của bản án và theo quy định của pháp luật. Trường hợp
20
ông P1, D1, ông D2, Á không nộp bản chính giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất nêu trên thì quan hành chính nhà nước thẩm quyền, C2, Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện T căn cứ vào bản án, quyết định của
Tòa án thu hồi, chỉnh biến động hoặc cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho đương sự theo quy định tại khoản 6 Điều 87 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP
ngày 15/5/2014.
quan cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất căn cứ vào bản án, quyết
định của Tòa án để giải quyết điều chỉnh biến động hoặc cấp lại giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất phù hợp với kết quả giải quyết của Tòa án.
8. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ định giá tổng cộng
11.500.000đồng. Buộc ông Nguyễn Hữu P1 phải chịu toàn bộ, số tiền này ông P
đã nộp tạm ứng chi xong. Do đó buộc ông Nguyễn Hữu P1 phải hoàn trả cho
ông Trần Quốc P 11.500.000đồng.
9. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Trần Quốc P và bà Thị Thảo X phải chịu 2.000.000đồng án phí dân
sự sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí ông P đã nộp
12.300.000đồng theo biên lai thu số 0002074 ngày 24/11/2021 5.550.000
đồng theo biên lai thu số 0002555 ngày 12/7/2022 của Chi cục Thi hành án dân
sự huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An. Hoàn trả cho ông P 15.850.000đồng.
Ông Nguyễn Hữu P1 phải chịu 600.000đồng án phí dân sự thẩm không
giá ngạch. Ông Nguyễn Hữu P1 Trương Hoài D1 phải liên đới chịu
46.500.000đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Ông Nguyễn Hữu P1 phải chịu 18.110.315đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Ông Phan Văn D2 phải chịu 300.000đồng án phí dân sự thẩm, tuy nhiên
ông D2 là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí nên được miễn án phí.
10. Về án phí dân sự phúc thẩm: ông Trần Quốc P Thị Thảo X
không phải chịu, hoàn trả cho ông P X mỗi người 300.000đồng tạm ứng
án phí đã nộp theo biên lai thu số 0008234 và 0008235 cùng ngày 07/3/2024 của
Chi cục thi hành án dân sự huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An.
11. Về hướng dẫn thi hành án: Trường hợp bản án được thi hành theo quy
định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải
thi hành án quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự
nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,
7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
10. Về hiệu lực của bản án: Bản án phúc thẩm hiệu lực pháp luật kể từ
ngày tuyên án.
21
Nơi nhận:
-TANDCC tại Tp.HCM;
- VKSND tỉnh Long An;
- TAND huyện Thủ Thừa;
- Chi cục THADS huyện Thủ Thừa;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ, án văn.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trịnh Thị Phúc
Tải về
Bản án số 415/2024/DS-PT Bản án số 415/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 415/2024/DS-PT Bản án số 415/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất