Bản án số 415/2023/HC-PT ngày 21-12-2023 của TAND cấp cao về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
415_2023_HC-PT_ CAP CAO_DA NANG
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
415_2023_HC-PT_ CAP CAO_DA NANG
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 415/2023/HC-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 415/2023/HC-PT ngày 21-12-2023 của TAND cấp cao về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | QĐ hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai trong trường hợp giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư… |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND cấp cao |
| Số hiệu: | 415/2023/HC-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 21/12/2023 |
| Lĩnh vực: | Hành chính |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: | Ông Mai Văn N khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
ông Trương Công Thi
Các Thẩm phán:
ông Phạm Văn Hợp
Ông Phạm Ngọc Thái
- Thư ký phiên tòa: bà Nguyễn Phương Mai, Thư ký Tòa án cấp cao tại
Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên
toà: bà Bùi Ngô Ý Nhi - Kiểm sát viên.
Ngày 21 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà
Nẵng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý 203/2023/TLPT-HC
ngày 06 tháng 10 năm 2023 về việc: “Khiếu kiện Quyết định hành chính trong
lĩnh vực quản lý đất đai”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 97/2023/HC-ST ngày 06/7/2023 của
Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 403/2023/QĐ-PT ngày 01 tháng
12 năm 2023, giữa các đương sự:
Người khởi kiện: Ông Mai Văn N; địa chỉ: Số A đường N, tổ dân phố E,
phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Xuân B - Có mặt (theo văn
bản ủy quyền ngày 18/01/2023). Địa chỉ: Tổ dân phố E, phường T, thành phố B,
tỉnh Đắk Lắk.
Người bị kiện: Ủy ban nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
Bản án số: 415/2023/HC-PT
Ngày: 21/12/2023
V/v: “Khiếu kiện Quyết định
hành chính trong lĩnh vực quản
lý đất đai”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

2
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Đại T - Chức vụ: Phó Chủ tịch
UBND thành phố B - Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.(theo văn bản ủy
quyền ngày 15/02/2023).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của UBND thành phố B: Ông
Phạm Văn N1 - Trưởng phòng Kỹ thuật, giải phóng mặt bằng Trung tâm phát
triển quỹ đất tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Trương Thị L; Địa chỉ: Số A đường N, tổ dân phố E, phường T,
thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Vắn gmawjt.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Xuân B; có mặt.
2.Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh Đắk Lắk. Người đại diện theo ủy
quyền: Ông Phạm Văn N1 - Trưởng phòng kỹ thuật - Bồi thường, giải phóng
mặt bằng, thuộc Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt, có đơn
xin xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Trong đơn khởi kiện ngày 09/01/2023, đơn khởi kiện bổ sung ngày
10/4/2023 và quá trình tham gia tố tụng, người khởi kiện là ông Mai Văn N trình
bày: Ngày 27/9/2009, con trai của ông là Mai Tiến H ký hợp đồng kinh tế với
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên C (sau đây gọi tắt là Công ty C),
nhận khoán diện tích đất 6.266m
2
của Công ty, để trồng cây Cà phê, thuộc thửa
đất số 53 (nay là thửa đất số 89), tờ bản đồ số 07 tại phường T, thành phố B,
tỉnh Đắk Lắk; Do con của ông làm ăn ở xa, không thể chăm sóc vườn cây Cà
phê được, nên ngày 31/10/2012, ông đại diện cho hộ gia đình ký kết hợp đồng
kinh tế số: 95Đ1/2012/HĐ với Công ty C, nhận khoán diện tích đất nêu trên;
Thời gian nhận khoán đất từ ngày 31/10/2012 đến ngày 31/12/2020.
Ngày 04/01/2017, Ủy ban nhân dân tỉnh Đ ban hành Quyết định số:
07/QĐ-UBND thu hồi 5.138.059m
2
đất của Công ty C, giao cho Trung tâm phát
triển quỹ đất tỉnh Đắk Lắk và UBND thành phố buôn M quản lý, sử dụng đất;
trong đó có thửa đất số 89 của gia đình ông đã bị thu hồi; Ngày 29/12/2022,
UBND thành phố B ban hành Quyết định số:10635/QĐ-UBND về việc Phê
duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để xây
dựng công trình: Hạ tầng giao thông khu dân cư phía Bắc phường T, thành phố
B; Gia đình ông được bồi thường, hỗ trợ về tài sản gắn liền trên diện tích đất bị
thu hồi. Tuy nhiên, gia đình ông chưa được bồi thường chi phí đầu tư còn lại vào
đất; Tài sản là nhà ở và vật kiến trúc của gia đình ông trên diện tích đất bị thu
hồi được xây dựng vào năm 2003 nhưng UBND thành phố B áp giá xây dựng
năm 2015 để bồi thường là không đúng; chậm chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ cho
gia đình ông; gia đình ông chưa được hỗ trợ đào tạo nghề và tìm kiếm việc làm,
được pháp luật quy định tại điểm b khoản 2 Điều 83 Luật Đất đai năm 2013,

3
Điều 20 Nghị định số: 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ, khoản 1
Điều 18 Quyết định số:14/2022/QĐ-UBND ngày 15/3/2022 của UBND tỉnh Đ;
chưa được hỗ trợ cây trồng vượt mật độ, cây trồng xen canh, được quy định tại
khoản 5 Điều 18 Quyết định số:14/2022/QĐ-UBND; chưa được hỗ trợ khác,
được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 83 Luật đất đai năm 2013, Điều 25 Nghị
định số: 47/2014/NĐ-CP, khoản 3 Điều 20 Quyết định số: 14/2022/QĐ-UBND.
Vì vậy, ông khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: Hủy một phần Quyết định
số: 10635/QĐ-UBND ngày 29/12/2022 của UBND thành phố B về việc Phê
duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để xây
dựng công trình: Hạ tầng giao thông khu dân cư phía Bắc phường T, thành phố
B; Buộc UBND thành phố B phải ban hành Quyết định phê duyệt bổ sung: Bồi
thường cho gia đình ông chi phí đầu tư vào đất còn lại; bồi thường về nhà ở và
vật kiến trúc trên diện tích đất bị thu hồi, theo giá xây dựng năm 2003; hỗ trợ
cho gia đình ông về đào tạo nghề nghiệp và tìm kiếm việc làm; hỗ trợ cây trồng
vượt mật độ, cây trồng xen canh; tiền lãi suất chậm chi trả tiền bồi thường và hỗ
trợ khác. Ngày 10/4/2023, ông rút yêu cầu khởi kiện về hỗ trợ khác.
2. Quá trình tham giải quyết vụ án, người bị kiện là UBND thành phố B
trình bày: Ông Mai Văn N sử dụng thửa đất số 89, tờ bản đồ số 7, diện tích
6.271,6m
2
tại tổ dân phố D, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, có nguồn gốc
là đất nhận khoán của Công ty C (theo hợp đồng số: 95Đ1/2012/HĐ ngày
31/10/2012 ); Ngày 04/01/2017, Ủy ban nhân dân tỉnh Đ ban hành Quyết định
số: 07/QĐ-UBND thu hồi 5.138.059m
2
đất của Công ty C, trong đó có thửa đất
số 89 ông N nhận khoán.
Ngày 29/12/2022, UBND thành phố B ban hành Quyết định số:10635/QĐ-
UBND về việc Phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất để xây dựng công trình: Hạ tầng giao thông khu dân cư phía
Bắc phường T, thành phố B; Trong đó hộ gia đình ông Mai Văn N được bồi
thường, hỗ trợ 2.271.436.243 đồng. Việc ông N khởi kiện yêu cầu được bồi
thường chi phí đầu tư còn lại vào đất, là không có căn cứ. Vì thời hạn thực hiện
hợp đồng giao khoán quyền sử dụng đất từ ngày 31/10/2012 đến ngày
31/12/2020; Tại thời điểm UBND thành phố B ban hành quyết định phê duyệt
phương án bồi thường, hỗ trợ, thì hợp đồng đã hết hạn, nên không có cơ sở để
bồi thường chi phí đầu tư còn lại vào đất. Việc ông N khởi kiện yêu cầu bồi
thường nhà ở và vật kiến trúc trên diện tích đất bị thu hồi, theo giá xây dựng
năm 2003 là không có căn cứ. Vì năm 2012, ông N mới nhận khoán diện tích đất
nêu trên; UBND thành phố B, xác định ông N xây dựng nhà ở và vật kiến trúc
trên thửa đất bị thu hồi vào năm 2015, là có căn cứ. Việc ông N khởi kiện yêu
cầu được hỗ trợ cây trồng vượt mật độ, cây trồng xen canh, là không có căn cứ
để xem xét giải quyết; Việc ông N khởi kiện yêu cầu UBND thành phố B phải
thanh toán khoản tiền lãi suất do chậm chi trả tiền bồi thường, là không có căn
cứ. Bởi lẽ, ngày 29/12/2022, UBND thành phố B ban hành Quyết định số:
10635/QĐ-UBND về việc Phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ cho ông N,
đến ngày 18/01/2023, Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh Đắk Lắk phối hợp với
UBND phường T chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ cho gia đình ông N là đúng với

4
quy định của pháp luật; Đối với các khoản hỗ trợ khác cho gia đình ông N,
Quyết định số: 10635/QĐ-UBND của UBND thành phố B đã hỗ trợ đầy đủ theo
quy định của pháp luật, đề nghị Tòa án xử bác yêu cầu khởi kiện của ông N.
3. Quá trình tham gia giải quyết vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan là Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh Đắk Lắk trình bày: Gia đình ông Mai
Văn N sử dụng thửa đất số 89, tờ bản đồ số 7, diện tích 6.271,6m
2
tại tổ dân phố
D, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, có nguồn gốc là đất nhận khoán của
Công ty C, đúng như UBND thành phố B đã trình bày bày; Thửa đất nêu trên đã
được thu hồi theo Quyết định số: 07/QĐ-UBND ngày 04/01/2017 của UBND
tỉnh Đ; Quyết định số:10635/QĐ-UBND ngày 29/12/2022 của UBND thành phố
B về việc Phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ cho ông N là đầy đủ theo quy
định của pháp luật, đề nghị Tòa án xử bác yêu cầu khởi kiện của ông N.
4. Quá trình tham gia giải quyết vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan là bà Trương Thị L trình bày: Bà là vợ ông Mai Văn N, bà đồng ý với yêu
cầu khởi kiện của ông N.
Từ những nội dung nêu trên, tại Bản án hành chính sơ thẩm số
97/2023/HC-ST ngày 06/7/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã quyết
định:
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng Hành chính; khoản 1 Điều
18, khoản 5 Điều 20 Quyết định số:14/2022/QĐ-UBND ngày 15/3/2022 của
UBND tỉnh Đ; Hợp đồng thuê khoán quyền sử dụng đất số: 95Đ1/2012/HĐ
được ký kết ngày 31/10/2012 giữa Công ty TNHH MTV C, đối với thửa đất số
53, tờ bản đồ số 07 (nay là thửa đất số 89, tờ bản đồ số 7) tại Tổ dân phố D,
phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; khoản 2 Điều 32 Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Mai Văn N.
1.Tuyên hủy một phần Quyết định số: 10635/QĐ-UBND ngày 29/12/2022
của UBND thành phố B; Buộc UBND thành phố B phải ban hành Quyết định
phê duyệt phương án hỗ trợ cho gia đình ông Mai Văn N đối với khoản tiền hỗ
trợ chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm; hỗ trợ cây trồng vượt mật độ 100%
trên diện tích đất bị thu hồi theo quy định của pháp luật.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Mai Văn N về việc: Hủy
một phần Quyết định số: 10635/QĐ-UBND ngày 29/12/2022 của UBND thành
phố B và buộc UBND thành phố B phải ban hành Quyết định phê duyệt phương
án bồi thường bổ sung cho gia đình ông về chi phí đầu tư vào đất còn lại; bồi
thường về nhà ở và vật kiến trúc trên diện tích đất bị thu hồi theo giá xây dựng
năm 2003; tiền lãi suất chậm chi trả tiền bồi thường.
3. Căn cứ khoản 2 Điều 173 Luật tố tụng Hành chính: Đình chỉ xét xử đối
với yêu cầu khởi kiện của ông Mai Văn N về việc buộc UBND thành phố B phải
ban hành Quyết định phê duyệt phương án hỗ trợ bổ sung cho gia đình ông về
khoản tiền hỗ trợ khác, khi nhà nước thu hồi đất.
Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy
định của pháp luật.

5
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 13/7/2023 UBND thành phố B kháng cáo đối
với Bản án sơ thẩm, lý do kháng cáo UBND thành phố B cho rằng Tòa án cấp
sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Mai Văn N là không đúng pháp
luật, bởi lẽ, hộ ông N đã được hỗ trợ khác theo khoản 3, Điều 20, Quyết định
14/2022/QĐ-UBND ngày 15/3/2022 của UBND tỉnh Đ, khoản hỗ trợ này thực
chất là hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm được quy định tại
Khoản 6, Điều 4 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP và Điều 18, Quyết định số
14/2022/QĐ-UBND, số tiền hỗ trợ là 1.201.232.000 đồng, việc chấp nhận yêu
cầu khởi kiện nêu trên của ông N theo Điều 18, Quyết định số 14/2022/QĐ-
UBND thì hộ ông N được hỗ trợ gấp 04 lần, vượt 02 lần nên không phù hợp
thực tế và bất cập.
Thứ hai, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận nội dung hỗ trợ cây trồng vượt mật
độ 100% theo khoản 5, Điều 20, Quyết định số 14/2022/QĐ-UBND là không có
cơ sở thực hiện.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện của UBND thành phố B xin xét xử vắng
mặt và giữ nguyên kháng cáo.
Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham
gia phiên tòa phát biểu ý kiến về vụ án như sau:
- Về tố tụng: Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, Hội đồng xét xử, những
người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã thực hiện và chấp hành đúng quy
định của Luật tố tụng hành chính.
- Về nội dung: Sau khi phân tích nội dung vụ án, Kiểm sát viên đề nghị Hội
đồng xét xử bác kháng cáo của UBND thành phố B, giữ nguyên Quyết định của
Bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét và kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, xem xét kháng cáo UBND thành phố B, xét thấy:
[1].Về tố tụng: Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định đúng về đối tượng, thời
hiệu khởi kiện và thẩm quyền giải quyết theo quy định tại Điều 3, khoản 1 Điều
30, khoản 4 Điều 32 và điểm a khoản 2 Điều 116 Luật tố tụng hành chính.
- Đơn kháng cáo UBND thành phố B là hợp lệ và trong thời hạn luật định,
do vậy Hội đồng xét xử giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm đối với vụ án.
[2]. Về nội dung:
[2.1]. Về nguồn gốc đất và quá trình sử dụng: Thửa đất số 89, tờ bản đồ số
7, diện tích 6.271,6m
2
tại Tổ dân phố D, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk,
thuộc quyền sử dụng đất của Công ty C; Ngày 30/10/2012, Công ty ký hợp đồng
với ông N là hộ lao động, cho ông N thuê khoán diện tích đất nêu trên để trồng
cây cà phê; Thời hạn thực hiện hợp đồng từ ngày 31/10/2012 đến ngày
31/12/2020. Ngày 04/01/2017, UBND tỉnh Đ ban hành Quyết định số: 07/QĐ-
UBND thu hồi 5.138.059,7m
2
đất của Công ty C, giao cho Trung tâm phát triển
quỹ đất tỉnh Đắk Lắk và UBND thành phố B quản lý, sử dụng, trong đó có thửa

6
đất số 89, gia đình ông N đang sử dụng, ngày 29/12/2022, UBND thành phố B
ban hành Quyết định số: 10635/QĐ-UBND, bồi thường, hỗ trợ cho gia đình ông
N cây trồng và tài sản khác gắn liền trên diện tích đất bị thu hồi, với tổng số tiền
2.271.436.243 đồng; không đồng ý một số nội dung, ông N khởi kiện áp giá xây
dựng, bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại, thanh toán cho gia đình ông
khoản tiền lãi suất do chậm chi trả tiền bồi thường và buộc UBND thành phố B
phải ban hành Quyết định phê duyệt bổ sung, Tòa án cấp sơ thẩm đã đình chỉ và
bác yêu cầu khởi kiện. Riêng đối với yêu cầu khởi kiện về khoản tiền hỗ trợ đào
tạo nghề nghiệp và tìm kiếm việc làm; hỗ trợ cây trồng trên đất vượt mật độ, đã
được Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện nên đã hủy một phần
Quyết định số: 10635/QĐ-UBND, buộc UBND thành phố B ban hành quyết
định bồi thường, hỗ trợ về hai khoản nói trên cho gia đình ông N, sau khi xét xử
sơ thẩm, UBND thành phố B kháng cáo đối với quyết định của Bản án sơ thẩm
về việc hủy một phần Quyết định số: 10635/QĐ-UBND để buộc UBND thành
phố B bổ sung các nội dung về hỗ trợ đào tạo nghề nghiệp và tìm kiếm việc làm;
hỗ trợ cây trồng trên đất vượt mật độ cho hộ ông N.
[2.2]. Xem xét kháng cáo đối với Bản án sơ thẩm về khoản tiền hỗ trợ đào
tạo nghề nghiệp và tìm kiếm việc làm; hỗ trợ cây trồng trên đất vượt mật độ của
UBND thành phố B, Hội đồng xét xử, xét thấy:
[2.1.1]. Sau khi có Luật đất đai năm 2013, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 47//2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 để hướng dẫn thi hành Luật đất đai,
đến của Chính phủ, đến ngày 06 tháng 01 năm 2017 có Nghị định số 01/2017/
NĐ- CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 47//2014/NĐ-CP. Tại
các Điều 19; Điều 20 Nghị định số 47//2014/NĐ-CP cũng như tại khoản 5 và
khoản 6 Điều 4 Nghị định số 01/2017/ NĐ- CP ngày ngày 06 tháng 01 năm
2017 của Chính phủ đều có quy định các khoản “Hỗ trợ ổn định đời sống và sản
xuất khi Nhà nước thu hồi đất” và “Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm
kiếm việc làm” là hai khoản hỗ trợ khác nhau, quy định rõ về các điều kiện, đối
tượng, trường hợp được xem xét hỗ trợ, đồng thời đều giao cho UBND các tỉnh
quyết định mức hỗ trợ khác. Tại Quyết định số: 14/2022/QĐ-UBND ngày
15/3/2022 của UBND tỉnh Đ cũng đã quy định rõ về hai khoản hỗ trợ nói trên.
Hộ ông N bị thu hồi đất theo Điều 83 Luật đất đai, thuộc đối tượng vừa được
“Hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất khi Nhà nước thu hồi đất” và “Hỗ trợ đào
tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm”, căn cứ các quy định nêu trên, xét
thấy, UBND thành phố B kháng cáo cho rằng hai khoản hỗ trợ nói trên thực chất
là một là không đúng.
[2.1.2]. Quy định của pháp luật liên quan đến hỗ trợ đối với cây trồng
trên đất bị thu hồi vượt mật độ 100%, xét thấy, tại thời điểm bồi thường, UBND
thành phố B áp dụng Quyết định số:10/2020/QĐ-UBND ngày 13/4/2020 của
UBND tỉnh Đ, tại khoản 3 Điều 4 Quyết định số:10/2020/QĐ-UBND nêu trên
quy định đối với cây trồng trên đất bị thu hồi vượt mật độ 100% thì không được
bồi thường, tuy nhiên không quy định về hỗ trợ, nhưng theo quy định tại khoản
5 Điều 20 Quyết định số:14/2022/QĐ-UBND ngày 15/3/2022 của UBND tỉnh Đ

7
cây trồng trên đất bị thu hồi vượt mật độ 100% thì được được hỗ trợ, tham khảo
Quyết định số 10/2022/QĐ-UBND ngày 10 tháng 3 năm 2023 của UBND tỉnh
Đ (chưa ban hành vào thời điểm thực hiện bồi thường), về việc sửa đổi, bổ sung
một số nội dung của Quyết định 10/2020/QĐ-UBND ngày 13/4/2020 của
UBND tỉnh về việc quy định đơn giá bồi thường, hỗ trợ cây trồng trên địa bàn
tỉnh Đắk Lắk thì quy định có quy định hỗ trợ đối với cây trồng vượt mật độ như
sau: “a)Trường hợp vườn cây có trồng xen canh nhiều loại cây, thì tính giá trị
bồi thường cây trồng chính theo đúng mật độ quy định (cây trồng chính là loại
cây trồng có giá trị bồi thường cao nhất hoặc cây có giá trị kinh tế cao), các
loại cây trồng xen và cây trồng chính vượt mật độ được tính hỗ trợ 80% giá trị
cây trồng cùng chủng loại, cây trồng tương đương.Tổng giá trị bồi thường, hỗ
trợ của cây trồng xen và cây trồng chính vượt mật độ không được vượt quá 60%
giá trị bồi thường cây trồng chính đúng mật độ”. Như vậy, tại thời điểm thực
hiện phương án bồi thường, hỗ trợ chưa có quy định rõ về “hỗ trợ của cây trồng
xen và cây trồng chính vượt mật độ”, tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay, theo
quy định mới thì cây trồng vượt mật độ vẫn được bồi thường, hỗ trợ theo các
quyết định nêu trên. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của ông N là có cơ sở.
[2.3]. Xem xét xem xét nội dung Quyết định số: 10635/QĐ-UBND ngày
29/12/2022 của UBND thành phố B về việc Phê duyệt phương án bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để xây dựng công trình: Hạ tầng giao
thông khu dân cư phía Bắc phường T, thành phố B (đợt 2 và đợt 3) (phần bồi
thường, hỗ trợ cho hộ gia đình ông N, bút lục 58 đến 68) chưa có các khoản hỗ
trợ đào tạo nghề nghiệp và tìm kiếm việc làm; hỗ trợ cây trồng trên đất vượt mật
độ.
Từ các căn cứ pháp luật đã trích dẫn nêu trên cho thấy “Hỗ trợ ổn định đời
sống và sản xuất khi Nhà nước thu hồi đất” và “Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi
nghề và tìm kiếm việc làm” là hai khoản hỗ trợ khác nhau, hộ gia đình ông N sử
dụng thửa đất số 89 là đất nhận khoán và sử dụng đất vào mục đích nông
nghiệp; vợ chồng ông N có nguồn thu nhập ổn định từ sản xuất nông nghiệp trên
thửa đất số 89, là đối tượng được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 19 Nghị
định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ, nên hộ gia đình ông N
được hỗ trợ chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm theo quy định của pháp luật.
UBND thành phố B kháng cáo cho rằng hai khoản hỗ trợ trên thực chất là một,
và cây trồng vượt mật độ không được hỗ trợ là không đúng quy định của pháp
luật, việc hỗ trợ về cây trồng vượt mật độ cần phải áp dụng các quy định có lợi
cho người bị thu hồi đất.
Từ những nhận định nêu trên, xét thấy, tại Bản án sơ thẩm đã chấp nhận
một phần yêu cầu khởi kiện của ông N là có căn cứ pháp luật. Do vậy, Hội đồng
xét xử phúc thẩm bác toàn bộ kháng cáo của UBND thành phố B, giữ nguyên
phần Quyết định của Bản án án hành chính sơ thẩm.
Do bác kháng cáo nên UBND thành phố B phải chịu án phí phúc thẩm.

8
Các Quyết định khác của Bản án sơ thẩm về đình chỉ một phần yêu cầu
khởi kiện; bác một số yêu cầu khởi kiện; án phí sơ thẩm không có kháng cáo,
kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1, Điều 241 Luật tố tụng hành chính, bác toàn bộ kháng cáo của
UBND thành phố B, giữ nguyên Quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm số
97/2023/HC-ST ngày 06/7/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
Áp dụng Điều 65, Điều 83 Luật đất đai năm 2013; Điều 19, Điều 20 và
Điều 25 Nghị định số 47//2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 và Khoản 5, 6, Điều 4
Nghị định số 01/2017/ NĐ- CP ngày 06 tháng 01 năm 2017 của Chính phủ Điều
17, Điều 18, khoản 5 Điều 20 Quyết định số:14/2022/QĐ-UBND ngày
15/3/2022 của UBND tỉnh Đ
Xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Mai Văn N.
1. Hủy một phần Quyết định số: 10635/QĐ-UBND ngày 29/12/2022 của
UBND thành phố B; Buộc UBND thành phố B phải ban hành Quyết định phê
duyệt phương án hỗ trợ cho gia đình ông Mai Văn N đối với khoản tiền hỗ trợ
chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm; hỗ trợ cây trồng vượt mật độ 100% trên
diện tích đất bị thu hồi theo quy định của pháp luật.
2. Đối với các Quyết định khác của Bản án sơ thẩm về đình chỉ xét xử đối
với yêu cầu khởi kiện đã rút và bác yêu cầu khởi kiện ông Mai Văn N, không có
kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết vthowfi hạn kháng
cáo, kháng nghị.
3. Về án phí hành chính phúc thẩm: Áp dụng Điều 34 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH1430/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về án phí,
lệ phí Tòa án, UBND thành phố B phải chịu 300.000 đồng án phí phúc thẩm,
được đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai thu tiền số 0003795
ngày 09/8/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đắk Lắk.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSNDCC tại Đà Nẵng;
- TAND tỉnh Đăk Lăk;
- Cục THADS tỉnh Đăk Lăk;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu HSVA, PHCTP, LT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
(Đã ký)
Trương Công Thi
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 10/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 08/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 25/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 16/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 03/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 29/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 27/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 27/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 22/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 22/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 15/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 14/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 14/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 26/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 18/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 18/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 11/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 22/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 21/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm