Bản án số 415/2023/HC-PT ngày 21-12-2023 của TAND cấp cao về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 415/2023/HC-PT

Tên Bản án: Bản án số 415/2023/HC-PT ngày 21-12-2023 của TAND cấp cao về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai
Quan hệ pháp luật: QĐ hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai trong trường hợp giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư…
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao
Số hiệu: 415/2023/HC-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 21/12/2023
Lĩnh vực: Hành chính
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Ông Mai Văn N khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
ông Trương Công Thi
Các Thẩm phán:
ông Phạm Văn Hợp
Ông Phạm Ngọc Thái
- Thư phiên tòa: bà Nguyễn Phương Mai, Thư Tòa án cấp cao tại
Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên
toà: Bùi Ngô Ý Nhi - Kiểm sát viên.
Ngày 21 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà
Nẵng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ 203/2023/TLPT-HC
ngày 06 tháng 10 năm 2023 về việc: “Khiếu kiện Quyết định hành chính trong
lĩnh vực quản lý đất đai”.
Do Bản án hành chính thẩm số 97/2023/HC-ST ngày 06/7/2023 của
Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 403/2023/QĐ-PT ngày 01 tháng
12 năm 2023, giữa các đương sự:
Người khởi kiện: Ông Mai n N; địa chỉ: SA đường N, tổ dân phố E,
phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Xuân B - mặt (theo văn
bản ủy quyền ngày 18/01/2023). Địa chỉ: Tổ dân phố E, phường T, thành phố B,
tỉnh Đắk Lắk.
Người bị kiện: Ủy ban nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
Bản án số: 415/2023/HC-PT
Ngày: 21/12/2023
V/v: “Khiếu kiện Quyết định
hành chính trong lĩnh vực quản
lý đất đai”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đại T - Chức vụ: Phó Chủ tịch
UBND thành phố B - Vắng mặt, đơn xin xét xử vắng mặt.(theo văn bản ủy
quyền ngày 15/02/2023).
Người bảo vquyền lợi ích hợp pháp của UBND thành phố B: Ông
Phạm Văn N1 - Trưởng phòng Kỹ thuật, giải phóng mặt bằng Trung tâm phát
triển quỹ đất tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Trương Thị L; Địa chỉ: Số A đường N, tổ dân phố E, phường T,
thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Vắn gmawjt.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Xuân B; có mặt.
2.Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh Đắk Lắk. Người đại diện theo ủy
quyền: Ông Phạm Văn N1 - Trưởng phòng kỹ thuật - Bồi thường, giải phóng
mặt bằng, thuộc Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt, đơn
xin xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Trong đơn khởi kiện ngày 09/01/2023, đơn khởi kiện bổ sung ngày
10/4/2023 và quá trình tham gia tố tụng, người khởi kiện là ông Mai Văn N trình
bày: Ngày 27/9/2009, con trai của ông Mai Tiến H hợp đồng kinh tế với
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên C (sau đây gọi tắt Công ty C),
nhận khoán diện tích đất 6.266m
2
của Công ty, để trồng cây phê, thuộc thửa
đất số 53 (nay thửa đất số 89), tờ bản đồ số 07 tại phường T, thành phố B,
tỉnh Đắk Lắk; Do con của ông làm ăn xa, không thể chăm sóc vườn cây
phê được, nên ngày 31/10/2012, ông đại diện cho hộ gia đình kết hợp đồng
kinh tế số: 95Đ1/2012/HĐ với Công ty C, nhận khoán diện tích đất nêu trên;
Thời gian nhận khoán đất từ ngày 31/10/2012 đến ngày 31/12/2020.
Ngày 04/01/2017, Ủy ban nhân dân tỉnh Đ ban hành Quyết định số:
07/QĐ-UBND thu hồi 5.138.059m
2
đất của Công ty C, giao cho Trung tâm phát
triển quỹ đất tỉnh Đắk Lắk UBND thành phố buôn M quản lý, sử dụng đt;
trong đó thửa đất số 89 của gia đình ông đã bị thu hồi; Ngày 29/12/2022,
UBND thành phố B ban hành Quyết định số:10635/QĐ-UBND v việc Phê
duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định khi nhà nước thu hồi đất để xây
dựng công trình: Hạ tầng giao thông khu dân phía Bắc phường T, thành phố
B; Gia đình ông được bồi thường, hỗ trợ vtài sản gắn liền trên diện tích đất bị
thu hồi. Tuy nhiên, gia đình ông chưa được bồi thường chi phí đầu tư còn lại vào
đất; i sản nhà vật kiến trúc của gia đình ông trên diện tích đất bị thu
hồi được xây dựng vào năm 2003 nhưng UBND thành phố B áp gxây dựng
năm 2015 để bồi thường là không đúng; chậm chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ cho
gia đình ông; gia đình ông chưa được hỗ trợ đào tạo nghề tìm kiếm việc làm,
được pháp luật quy định tại điểm b khoản 2 Điều 83 Luật Đất đai năm 2013,
3
Điều 20 Nghị định số: 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ, khoản 1
Điều 18 Quyết định số:14/2022/QĐ-UBND ngày 15/3/2022 của UBND tỉnh Đ;
chưa được hỗ trợ cây trồng t mật độ, cây trồng xen canh, được quy định tại
khoản 5 Điều 18 Quyết định số:14/2022/QĐ-UBND; chưa được hỗ trợ khác,
được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 83 Luật đất đai năm 2013, Điều 25 Nghị
định số: 47/2014/NĐ-CP, khoản 3 Điều 20 Quyết định số: 14/2022/QĐ-UBND.
Vì vậy, ông khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: Hủy một phần Quyết định
số: 10635/QĐ-UBND ngày 29/12/2022 của UBND thành phố B về việc Phê
duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định khi nhà nước thu hồi đất để xây
dựng công trình: Hạ tầng giao thông khu dân phía Bắc phường T, thành phố
B; Buộc UBND thành phố B phải ban hành Quyết định phê duyệt bổ sung: Bồi
thường cho gia đình ông chi phí đầu o đất còn lại; bồi thường về nhà
vật kiến trúc trên diện tích đất bị thu hồi, theo gxây dựng năm 2003; hỗ trợ
cho gia đình ông về đào tạo nghề nghiệp tìm kiếm việc làm; hỗ trợ cây trồng
vượt mật độ, cây trồng xen canh; tiền lãi suất chậm chi trả tiền bồi thường và hỗ
trợ khác. Ngày 10/4/2023, ông rút yêu cầu khởi kiện về hỗ trợ khác.
2. Quá trình tham giải quyết vụ án, người bị kiện UBND thành phố B
trình bày: Ông Mai Văn N sử dụng thửa đất số 89, tờ bản đồ số 7, diện tích
6.271,6m
2
tại tổ dân phố D, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, có nguồn gốc
đất nhận khoán của Công ty C (theo hợp đồng số: 95Đ1/2012/HĐ ngày
31/10/2012 ); Ngày 04/01/2017, y ban nhân dân tỉnh Đ ban hành Quyết định
số: 07/QĐ-UBND thu hồi 5.138.059m
2
đất của Công ty C, trong đó thửa đất
số 89 ông N nhận khoán.
Ngày 29/12/2022, UBND thành phố B ban hành Quyết định số:10635/QĐ-
UBND v việc Phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định khi nhà
ớc thu hồi đất để xây dựng công trình: Hạ tầng giao thông khu dân phía
Bc phường T, thành phố B; Trong đó hộ gia đình ông Mai Văn N được bồi
thường, hỗ trợ 2.271.436.243 đồng. Việc ông N khởi kiện yêu cầu được bồi
thường chi phí đầu còn lại vào đất, không căn cứ. thời hạn thực hiện
hợp đồng giao khoán quyền s dụng đất từ ngày 31/10/2012 đến ngày
31/12/2020; Tại thời điểm UBND thành phố B ban hành quyết định phê duyt
phương án bồi thường, hỗ trợ, thì hợp đồng đã hết hạn, nên không sở đ
bồi thường chi phí đầu còn lại vào đất. Việc ông N khởi kiện yêu cầu bồi
thường nhà vật kiến trúc trên diện tích đất bị thu hồi, theo giá xây dựng
năm 2003 là không có căn cứ. Vì năm 2012, ông N mới nhận khoán diện tích đất
nêu trên; UBND thành phố B, xác định ông N xây dựng nhà vật kiến trúc
trên thửa đất bị thu hồi vào năm 2015, căn cứ. Việc ông N khởi kiện yêu
cầu được hỗ trợ cây trồng vượt mật độ, y trồng xen canh, không căn c
để xem xét giải quyết; Việc ông N khởi kiện yêu cầu UBND thành phố B phải
thanh toán khoản tiền lãi suất do chậm chi trtiền bồi thường, không n
cứ. Bởi lẽ, ngày 29/12/2022, UBND thành phố B ban hành Quyết định số:
10635/QĐ-UBND vviệc Phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ cho ông N,
đến ngày 18/01/2023, Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh Đắk Lắk phối hợp với
UBND phường T chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ cho gia đình ông N đúng với
4
quy định của pháp luật; Đối với các khoản hỗ trợ khác cho gia đình ông N,
Quyết định số: 10635/QĐ-UBND của UBND thành phố B đã hỗ trợ đầy đủ theo
quy định của pháp luật, đề nghị Tòa án xử bác yêu cầu khởi kiện của ông N.
3. Quá trình tham gia giải quyết vụ án, người quyền lợi, nghĩa vliên
quan Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh Đắk Lắk trình bày: Gia đình ông Mai
Văn N sử dụng thửa đất số 89, tờ bản đồ số 7, diện tích 6.271,6m
2
tại tổ dân phố
D, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, nguồn gốc đất nhận khoán của
Công ty C, đúng như UBND thành phố B đã trình bày bày; Thửa đất nêu trên đã
được thu hồi theo Quyết định số: 07/QĐ-UBND ngày 04/01/2017 của UBND
tỉnh Đ; Quyết định số:10635/QĐ-UBND ngày 29/12/2022 của UBND thành phố
B về việc Phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ cho ông N là đầy đủ theo quy
định của pháp luật, đề nghị Tòa án xử bác yêu cầu khởi kiện của ông N.
4. Quá trình tham gia giải quyết vụ án, người quyền lợi, nghĩa v liên
quan Trương Thị L trình bày: là v ông Mai Văn N, đồng ý với yêu
cầu khởi kiện của ông N.
Từ những nội dung nêu trên, tại Bản án hành chính thẩm số
97/2023/HC-ST ngày 06/7/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã quyết
định:
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng Hành chính; khoản 1 Điều
18, khoản 5 Điều 20 Quyết định số:14/2022/QĐ-UBND ngày 15/3/2022 của
UBND tỉnh Đ; Hợp đồng thuê khoán quyền sử dụng đất số: 95Đ1/2012/HĐ
được kết ngày 31/10/2012 giữa Công ty TNHH MTV C, đối với thửa đất số
53, tờ bản đồ s07 (nay thửa đất số 89, tbản đồ số 7) tại Tổ dân phố D,
phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; khoản 2 Điều 32 Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Mai Văn N.
1.Tuyên hủy một phần Quyết định số: 10635/QĐ-UBND ngày 29/12/2022
của UBND thành phố B; Buộc UBND thành phố B phải ban hành Quyết định
phê duyệt phương án hỗ trợ cho gia đình ông Mai Văn N đối với khoản tiền hỗ
trợ chuyển đổi nghề tìm kiếm việc làm; hỗ trợ cây trồng vượt mật độ 100%
trên diện tích đất bị thu hồi theo quy định của pháp luật.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Mai Văn N vviệc: Hủy
một phần Quyết định số: 10635/QĐ-UBND ngày 29/12/2022 của UBND thành
phố B buộc UBND thành phố B phải ban hành Quyết định phê duyệt phương
án bồi thường bổ sung cho gia đình ông về chi phí đầu vào đất còn lại; bồi
thường vnhà vật kiến trúc trên diện tích đất bị thu hồi theo giá xây dựng
năm 2003; tiền lãi suất chậm chi trả tiền bồi thường.
3. Căn cứ khoản 2 Điều 173 Luật tố tụng Hành chính: Đình chỉ xét xử đối
với yêu cầu khởi kiện của ông Mai Văn N về việc buộc UBND thành phố B phải
ban hành Quyết định phê duyệt phương án hỗ trợ bổ sung cho gia đình ông về
khoản tiền hỗ trợ khác, khi nhà nước thu hồi đất.
Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí quyền kháng cáo theo quy
định của pháp luật.
5
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 13/7/2023 UBND thành phố B kháng cáo đối
với Bản án thẩm, lý do kháng cáo UBND thành phố B cho rằng Tòa án cấp
sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Mai Văn N là không đúng pháp
luật, bởi lẽ, hộ ông N đã được hỗ trợ khác theo khoản 3, Điều 20, Quyết định
14/2022/QĐ-UBND ngày 15/3/2022 của UBND tỉnh Đ, khoản hỗ trợ này thực
chất hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề tìm kiếm việc làm được quy định tại
Khoản 6, Điều 4 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP Điều 18, Quyết định số
14/2022/QĐ-UBND, s tiền hỗ trợ 1.201.232.000 đồng, việc chấp nhận yêu
cầu khởi kiện nêu trên của ông N theo Điều 18, Quyết định số 14/2022/QĐ-
UBND thì hộ ông N được hỗ trợ gấp 04 lần, vượt 02 lần nên không phù hợp
thực tế và bất cập.
Thứ hai, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận nội dung hỗ trợ cây trồng vượt mật
độ 100% theo khoản 5, Điều 20, Quyết định số 14/2022/QĐ-UBND là không có
cơ sở thực hiện.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện của UBND thành phố B xin xét xvắng
mặt và giữ nguyên kháng cáo.
Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham
gia phiên tòa phát biểu ý kiến về vụ án như sau:
- Về tố tụng: Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, Hội đồng xét xử, những
người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã thực hiện và chấp hành đúng quy
định của Luật tố tụng hành chính.
- Về nội dung: Sau khi phân tích nội dung vụ án, Kiểm sát viên đề nghị Hội
đồng xét xử bác kháng cáo của UBND thành phố B, giữ nguyên Quyết định của
Bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét và kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, xem xét kháng cáo UBND thành phố B, xét thấy:
[1].Về tố tụng: Tòa án cấp thẩm đã xác định đúng về đối tượng, thời
hiệu khởi kiện và thẩm quyền giải quyết theo quy định tại Điều 3, khoản 1 Điều
30, khoản 4 Điều 32 và điểm a khoản 2 Điều 116 Luật tố tụng hành chính.
- Đơn kháng cáo UBND thành phố B hợp lệ trong thời hạn luật định,
do vậy Hội đồng xét xử giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm đối với vụ án.
[2]. Về nội dung:
[2.1]. Về nguồn gốc đất quá trình sử dụng: Thửa đất số 89, tờ bản đs
7, diện tích 6.271,6m
2
tại Tổ dân phố D, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk,
thuộc quyền sử dụng đất của Công ty C; Ngày 30/10/2012, Công ty ký hợp đồng
với ông N hộ lao động, cho ông N thuê khoán diện tích đất nêu trên để trồng
cây phê; Thời hạn thực hiện hợp đồng từ ngày 31/10/2012 đến ngày
31/12/2020. Ngày 04/01/2017, UBND tỉnh Đ ban hành Quyết định số: 07/QĐ-
UBND thu hồi 5.138.059,7m
2
đất của Công ty C, giao cho Trung tâm phát triển
quỹ đất tỉnh Đắk Lắk UBND thành phố B quản lý, sử dụng, trong đó thửa
6
đất số 89, gia đình ông N đang sử dụng, ngày 29/12/2022, UBND thành phố B
ban hành Quyết định số: 10635/QĐ-UBND, bồi thường, hỗ trợ cho gia đình ông
N cây trồng và tài sản khác gắn liền trên diện tích đất bị thu hồi, với tổng số tiền
2.271.436.243 đồng; không đồng ý một số nội dung, ông N khởi kiện áp giá xây
dựng, bồi thường chi phí đầu vào đất còn lại, thanh toán cho gia đình ông
khoản tiền lãi suất do chậm chi trả tiền bồi thường buộc UBND thành phố B
phải ban hành Quyết định phê duyệt bổ sung, Tòa án cấp sơ thẩm đã đình chỉ và
bác yêu cầu khởi kiện. Riêng đối với yêu cầu khởi kiện về khoản tiền hỗ trợ đào
tạo nghề nghiệp tìm kiếm việc làm; hỗ trợ cây trồng trên đất vượt mật độ, đã
được Tòa án cấp thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện nên đã hủy một phần
Quyết định số: 10635/QĐ-UBND, buộc UBND thành phố B ban hành quyết
định bồi thường, hỗ trợ về hai khoản nói trên cho gia đình ông N, sau khi xét x
thẩm, UBND thành phố B kháng cáo đối với quyết định của Bản án thẩm
về việc hủy một phần Quyết định số: 10635/QĐ-UBND để buộc UBND thành
phố B bổ sung các nội dung về hỗ trợ đào tạo nghề nghiệp và tìm kiếm việc làm;
hỗ trợ cây trồng trên đất vượt mật độ cho hộ ông N.
[2.2]. Xem xét kháng cáo đối với Bản án sơ thẩm về khoản tiền hỗ trợ đào
tạo nghề nghiệp và tìm kiếm việc làm; hỗ trợ cây trồng trên đất vượt mật độ của
UBND thành phố B, Hội đồng xét xử, xét thấy:
[2.1.1]. Sau khi Luật đất đai năm 2013, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 47//2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 đhướng dẫn thi hành Luật đất đai,
đến của Chính phủ, đến ngày 06 tháng 01 năm 2017 Nghị định số 01/2017/
- CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 47//2014/NĐ-CP. Ti
các Điều 19; Điều 20 Nghị định số 47//2014/NĐ-CP cũng như tại khoản 5
khoản 6 Điều 4 Nghị định số 01/2017/ - CP ngày ngày 06 tháng 01 năm
2017 của Chính ph đều có quy định các khoản “Hỗ trợ ổn định đời sống và sản
xuất khi Nhà nước thu hồi đất” “Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghtìm
kiếm việc làm” hai khoản hỗ trợ khác nhau, quy định v các điều kiện, đối
tượng, trường hợp được xem xét hỗ trợ, đồng thời đều giao cho UBND các tỉnh
quyết định mức hỗ trợ khác. Tại Quyết định số: 14/2022/QĐ-UBND ngày
15/3/2022 của UBND tỉnh Đ ng đã quy định vhai khoản hỗ trợ nói trên.
Hộ ông N bthu hồi đất theo Điều 83 Luật đất đai, thuộc đối tượng vừa được
Hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất khi Nhà nước thu hồi đất” “Hỗ trợ đào
tạo, chuyển đổi nghề tìm kiếm việc làm”, căn c các quy định nêu trên, xét
thấy, UBND thành phố B kháng cáo cho rằng hai khoản hỗ trợ nói trên thực chất
là một là không đúng.
[2.1.2]. Quy định của pháp luật liên quan đến hỗ trợ đối với cây trồng
trên đất bị thu hồi vượt mật độ 100%, xét thấy, tại thời điểm bồi thường, UBND
thành phố B áp dụng Quyết định số:10/2020/QĐ-UBND ngày 13/4/2020 của
UBND tỉnh Đ, tại khoản 3 Điều 4 Quyết định số:10/2020/QĐ-UBND nêu trên
quy định đối với cây trồng trên đất bị thu hồi vượt mt độ 100% thì không được
bồi thường, tuy nhiên không quy định về hỗ trợ, nhưng theo quy định tại khoản
5 Điều 20 Quyết định số:14/2022/QĐ-UBND ngày 15/3/2022 của UBND tỉnh Đ
7
cây trồng trên đất bị thu hồi vượt mật độ 100% thì được được hỗ trợ, tham khảo
Quyết định số 10/2022/QĐ-UBND ngày 10 tháng 3 năm 2023 của UBND tỉnh
Đ (chưa ban hành vào thời điểm thực hiện bồi thường), về việc sửa đổi, bổ sung
một số nội dung của Quyết định 10/2020/QĐ-UBND ngày 13/4/2020 của
UBND tỉnh về việc quy định đơn giá bồi thường, hỗ trợ cây trồng trên địa n
tỉnh Đắk Lắk thì quy đnh có quy định hỗ trợ đối với cây trồng vượt mật độ như
sau: a)Trường hợp vườn y trồng xen canh nhiều loại cây, ttính giá tr
bồi thường cây trồng chính theo đúng mật độ quy định (cây trồng chính loại
cây trồng giá trị bồi thường cao nhất hoặc cây gtrị kinh tế cao), các
loại cây trồng xen y trồng chính vượt mật độ được tính hỗ trợ 80% giá trị
cây trồng cùng chủng loại, cây trồng tương đương.Tổng giá trị bồi thường, hỗ
trợ của cây trồng xen và cây trồng chính vượt mật độ không được vượt quá 60%
giá trị bồi thường cây trồng chính đúng mật độ”. Như vậy, tại thời điểm thực
hiện phương án bồi thường, hỗ trợ chưa có quy định rõ về hỗ trợ của cây trồng
xen cây trồng chính vượt mật độ”, tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay, theo
quy định mới thì cây trồng vượt mật độ vẫn được bồi thường, hỗ trợ theo các
quyết định nêu trên. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của ông N là có cơ sở.
[2.3]. Xem xét xem xét nội dung Quyết định số: 10635/QĐ-UBND ngày
29/12/2022 của UBND thành phố B vviệc Phê duyệt phương án bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để xây dựng công trình: Hạ tầng giao
thông khu n phía Bắc phường T, thành phố B (đợt 2 đợt 3) (phần bồi
thường, hỗ trợ cho hộ gia đình ông N, bút lục 58 đến 68) chưa các khoản h
trợ đào tạo nghề nghiệp và tìm kiếm việc làm; hỗ trợ cây trồng trên đất vượt mật
độ.
Từ các căn cứ pháp luật đã trích dẫn nêu trên cho thấy “Hỗ trợ ổn định đời
sống sản xuất khi Nhà nước thu hồi đất” “Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi
nghề và tìm kiếm việc làm” hai khoản hỗ trợ khác nhau, hộ gia đình ông N s
dụng thửa đất số 89 đất nhận khoán s dụng đất vào mục đích nông
nghiệp; vợ chồng ông N có nguồn thu nhập ổn định từ sản xuất nông nghiệp trên
thửa đất số 89, là đối tượng được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 19 Nghị
định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ, nên hộ gia đình ông N
được hỗ trợ chuyển đổi nghề tìm kiếm việc làm theo quy định của pháp luật.
UBND thành phố B kháng cáo cho rằng hai khoản hỗ trợ trên thực chất một,
cây trồng vượt mật độ không được hỗ trợ không đúng quy định của pháp
luật, việc hỗ trợ về cây trồng vượt mt độ cần phải áp dụng các quy định lợi
cho người bị thu hồi đất.
Từ những nhận định nêu trên, xét thấy, tại Bản án thẩm đã chấp nhận
một phần yêu cầu khởi kiện của ông N là có căn cứ pháp luật. Do vậy, Hội đồng
xét xử phúc thẩm bác toàn bộ kháng cáo của UBND thành phố B, giữ nguyên
phần Quyết định của Bản án án hành chính sơ thẩm.
Do bác kháng cáo nên UBND thành phố B phải chịu án phí phúc thẩm.
8
Các Quyết định khác của Bản án thẩm về đình chỉ một phần yêu cầu
khởi kiện; bác một số yêu cầu khởi kiện; án phí thẩm không kháng cáo,
kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1, Điều 241 Luật tố tụng hành chính, bác toàn bộ kháng cáo của
UBND thành phố B, giữ nguyên Quyết định của Bản án hành chính thẩm s
97/2023/HC-ST ngày 06/7/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
Áp dụng Điều 65, Điều 83 Luật đất đai năm 2013; Điều 19, Điều 20
Điều 25 Nghị định số 47//2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 Khoản 5, 6, Điều 4
Nghị định s 01/2017/ NĐ- CP ngày 06 tháng 01 năm 2017 của Chính phủ Điều
17, Điều 18, khoản 5 Điều 20 Quyết định số:14/2022/QĐ-UBND ngày
15/3/2022 của UBND tỉnh Đ
Xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Mai Văn N.
1. Hủy một phần Quyết định số: 10635/QĐ-UBND ngày 29/12/2022 của
UBND thành phố B; Buộc UBND thành phố B phải ban hành Quyết định phê
duyệt phương án htrợ cho gia đình ông Mai n N đối với khoản tiền htrợ
chuyển đổi nghề tìm kiếm việc làm; hỗ trợ cây trồng vượt mật độ 100% trên
diện tích đất bị thu hồi theo quy định của pháp luật.
2. Đối với các Quyết định khác của Bản án thẩm về đình chỉ xét xử đối
với yêu cầu khởi kiện đã rút và bác yêu cầu khởi kiện ông Mai Văn N, không
kháng cáo, kháng nghị, hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết vthowfi hạn kháng
cáo, kháng nghị.
3. Về án phí hành chính phúc thẩm: Áp dụng Điều 34 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH1430/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về án phí,
lệ phí Tòa án, UBND thành phố B phải chịu 300.000 đồng án phí phúc thẩm,
được đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai thu tiền số 0003795
ngày 09/8/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đắk Lắk.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSNDCC ti Đà Nng;
- TAND tnh Đăk Lăk;
- Cc THADS tnh Đăk Lăk;
- Nhng người tham gia t tng;
- Lưu HSVA, PHCTP, LT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN T
(Đã ký)
Trương Công Thi
Tải về
415_2023_HC-PT_ CAP CAO_DA NANG 415_2023_HC-PT_ CAP CAO_DA NANG

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

415_2023_HC-PT_ CAP CAO_DA NANG 415_2023_HC-PT_ CAP CAO_DA NANG

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất