Bản án số 38/2024/DS-ST ngày 28/06/2024 của TAND huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế về tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 38/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 38/2024/DS-ST ngày 28/06/2024 của TAND huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế về tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Phong Điền (TAND tỉnh Thừa Thiên Huế)
Số hiệu: 38/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 28/06/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Lê Hoàng V - Nguyễn Thị H
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

- 1 -
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN P Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
THÀNH PHỐ CẦN THƠ
Bản án số: 38/2024/DS-ST
Ngày: 28/6/2024
V/v tranh chấp Quyền sử dụng đất
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN P, THÀNH PHỐ CẦN THƠ
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: bà Liêng Thị Hồng Hoa
Các Hội thẩm nhân dân: 1. Ông Võ Văn Tường
` 2. Ông Nguyễn Thanh Hải
- Thư ký phiên tòa: bà Đinh Thanh Thảo, là Thư ký tòa án của Tòa án
nhân dân huyện P, thành phố Cần Thơ
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P, thành phố Cần Thơ tham
gia phiên tòa: bà Lương Thị Mỹ Hiền, Kiểm sát viên
Trong các ngày 26, 28 tháng 6 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện
P, thành phố Cần Thơ, xét xử thẩm công khai vụ án thụ số 83/2023/TLST-
DS
ngày 04 tháng 5 năm 2023 về việc tranh chấp Quyền sử dụng đất, theo Quyết
định đưa vụ án ra xét xử thẩm số 71/2024/QĐXXST-DS ngày 12 tháng 6
năm 2024, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: ông Lê Hoàng V, sinh năm 1955
Địa chỉ: B ấp N, xã N, huyện P, thành phố Cần Thơ – Có mặt.
Bị đơn: bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1959
Địa chỉ: ấp N, xã N, huyện P, thành phố Cần Thơ – Có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. ông Trần Trọng T, sinh năm 1990
Địa chỉ: ấp N, xã N, huyện P, thành phố Cần Thơ – Có mặt.
2. bà Cao Thị Á, sinh năm 1954 – Vắng mặt
3. bà Lê Thị Khánh V1, sinh năm 1989 – Có mặt
4. ông Lê Cao Hoàng V2, sinh năm 1993 – Vắng mặt
Cùng địa chỉ: B ấp N, xã N, huyện P, thành phố Cần Thơ.
Người làm chứng:
- 2 -
1. ông Trần Anh D, sinh năm 1962, địa chỉ: ấp N, xã N, huyện P, thành phố
Cần Thơ – Có mặt.
2. ông Văn D1, sinh năm 1951, địa chỉ: ấp N, N, huyện P, thành phố
Cần Thơ – Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn ông Hoàng V trình bày: phần đất thửa 444, diện tích
540m
2
nguồn gốc của ông để lại cho ông, ông đã được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số 000142 ngày 09/11/1996, cấp đổi ngày 29/7/2010.
Trên đất căn nhà của ông Văn K (là em ruột của ông nội ông) nhờ, sau
khi ông K chết thì ông Trần Thanh B (cháu ngoại của ông K) tiếp tục nhờ tại
phần đất này. Nay ông B đã chết, Nguyễn Thị H (vợ của ông B) tiếp tục
đây, ông muốn lấy lại đất thì bà H không đồng ý. Ông khởi kiện yêu cầu bà H di
dời nhà giao trả phần đất diện tích 45m
2
, thuộc thửa 444 cho ông.
Bị đơn Nguyễn Thị H trình bày: phần đất tranh chấp này của ông
ngoại chồng Văn K đã từ thời Pháp thuộc, sau khi ông ngoại chết thì
giao nhà và đất lại cho chồng của bà ông Trần Thanh B ở. Bà đã nhà này từ
trước năm 1975, đến nay hơn 50 năm, không nghe nói về việc nhờ, cũng
không hay biết ông V được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. phản tố
yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất cho bà nền nhà và lối đi diện tích 84,5m
2
.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ông Trần Trọng T trình bày: thống nhất ý kiến của mẹ ông H, ông
yêu cầu ông V mở lối đi ngang 01m từ nhà ra lộ để gia đình ông sinh sống.
- Cao Thị Á, Thị Khánh V1, ông Cao Hoàng V2 trình bày:
thống nhất ý kiến của ông V.
Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa: quá trình chuẩn bị xét xử
Thẩm phán thực hiện đúng các quy định pháp luật về tố tụng nhưng xác định
quan hệ pháp luật tranh chấp quyền sử dụng đất lối đi chưa chính xác,
cần xác định quan hệ tranh chấp là đòi đất cho ở nhờ và mở lối đi; ngoài ra cũng
vi phạm thời hạn đưa ván ra xét xử. Hội đồng xét xử và những người tham gia
tố tụng đã tuân thủ quy định về quyền nghĩa vụ. Về nội dung vụ án, nguồn
gốc đất của ông nội nguyên đơn cho ông Văn K ở, ông K đã rất lâu trước
khi ông V được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tại các biên bản hòa
giải, H đều đồng ý trả đất, yêu cầu hỗ trợ chi phí di dời 200.000.000 đồng,
cho thấy bà H đang ở nhờ. Bị đơn cũng không khiếu nại việc cấp quyền sử dụng
đất cho nguyên đơn, vậy quyền sử dụng đất thuộc về nguyên đơn. Xét ông K
- 3 -
sử dụng đất hơn 30 năm, sự đồng ý của chủ đất, hiện H không còn chỗ
nào khác, tuy nhiên, H đồng ý di dời nên ghi nhận sự tự nguyện di dời, cần
buộc ông V hỗ trợ di dời theo biên bản định giá. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp
nhận một phần yêu cầu phản tố, đình chỉ yêu cầu độc lập.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Theo đơn khởi kiện ngày 06/3/2023, ngày 29/3/2023 ông Hoàng V
yêu cầu Nguyễn Thị H di dời tài sản để giao trả phần đất H đang nhờ
cho ông diện tích 45m
2
, thửa 444. Tòa án nhân dân huyện P đã thụ vụ án
Tranh chấp Đòi đất cho nhờ để giải quyết theo thẩm quyền. Ngày 12/3/2024
ông Trần Trọng T yêu cầu mở lối đi từ nhà ra lộ, diện tích qua đo đạc là 14,3m
2
,
thửa 444. Ngày 09/4/2024 H đơn phản tố yêu cầu ông V tách quyền sử
dụng đất nhà mở lối đi, tổng diện tích 84,5m
2
cho bà. Nguyên đơn
yêu cầu đòi đất, bị đơn yêu cầu xác định quyền sử dụng đất mở lối
đi, vì vậy Tòa án nhân dân huyện P xác định quan hệ pháp luật lạiTranh chấp
quyền sử dụng đất L đi. Tại phiên tòa, ông T rút lại yêu cầu mlối đi do mẹ
của ông (là H) đã có yêu cầu nên Hội đồng xét xử đình chỉ giải quyết đối với
yêu cầu độc lập.
[2] Phần đất tranh chấp nguồn gốc của ông chung vì ông nội của ông
V ông ngoại chồng của H anh em ruột. Quá trình sử dụng đất hai bên
đều thống nhất từ thời ông Văn K căn nhà thờ cúng của dòng họ, sau đó
đến ông Trần Thanh B, khi ông B (chồng H chết) thì H tiếp tục sử dụng.
Theo nguyên đơn trình bày thì ông K do hoàn cảnh khó khăn nên các anh chị em
của ông K cất nhà làm nơi thờ cúng ông để ông K ở, sau khi ông K chết vài
năm sau căn nhà này không còn dùng làm nơi thờ cúng. Như vậy, giữa hai bên
không thỏa thuận nhờ, cũng không giấy tờ về cho việc nhờ. Vợ chồng
ông B, H vẫn sử dụng đất ổn định, ngay tình mà không tranh chấp. Từ
năm 1990 căn nhà ông B, H không còn làm nơi thờ cúng chung của dòng
họ nhưng phía ông V cũng không có yêu cầu đòi đất lại.
[3] Năm 1996 ông V được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đúng
trình tự, thủ tục, đúng theo vị trí, số thửa, diện tích khai trong sổ mục kê, sổ
địa chính. Năm 2010 ông V đăng ký cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
theo mẫu mới, đồng thời có tiến hành đo đạc do chuyển nhượng, điều chỉnh diện
tích thửa 444. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông V thửa 444
bao gồm cả căn nhà bà H đang sử dụng nhưng bà H không hay biết.
- 4 -
[4] Theo Tờ cam kết ngày 18/10/2017 của ông B ông V do nguyên đơn
cung cấp bản photo, nội dung ông B cam kết với ông V để xin đi nhờ trên đất
của ông V, không đcập đến phần đất căn nhà nhờ. Người làm chứng
ông Lê Văn D1 cho biết căn nhà bà H đang ở có hợp lệ hay không thì do hai bên
thỏa thuận, ông không biết rõ. vậy, không sở để xác định sự việc gia
đình bà H ở nhờ.
[5] Xét yêu cầu phản tố của bị đơn về việc công nhận phần đất đã sử
dụng hơn 50 năm yêu cầu mlối đi từ nhà ra lộ qua thửa 444 của ông V,
nhưng bà H cho rằng hoàn cảnh quá khó khăn, không thể trả giá trị phần đất làm
lối đi. Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, H cũng đồng ý di dời
nhưng ông V phải trả cho số tiền 200.000.000 đồng để tìm nơi khác, tại
phiên tòa đồng ý giảm bớt số tiền thành 150.000.000 đồng. Do bị đơn đồng ý
di dời tài sản, giao lại đất cho ông V, mặt khác diện tích nền nhà lối đi cũng
quá nhỏ so với diện tích tối thiểu đtách thửa nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự
tự nguyện của đương sự. Ông V phải hoàn trả giá trị đất tài sản trên đất cho
H gồm: (7,8m
2
đất ONT x 6.000.000 đồng/m
2
) + (62,4m
2
đất CLN x 144.000
đồng/m
2
) + giá trị cây trồng 4.991.000 đồng + giá trị căn nhà 26.453.385
đồng = 87.229.985 đồng.
[6] Về án phí dân sự thẩm, nguyên đơn, bị đơn thuộc trường hợp người
cao tuổi được miễn nộp án phí; nguyên đơn, bị đơn mỗi bên phải chịu chi phí đo
đạc định giá theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 688, Điều 689 Bộ luật dân sự năm 2005; khoản 9 Điều 26,
điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản
1 Điều 203 Luật đất đai; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lệ phí
Tòa án.
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn.
Đình chỉ yêu cầu độc lập của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần
Trọng T.
Buộc Nguyễn Thị H giao cho ông Hoàng V quyền sử dụng đất diện
tích 70,2m
2
, thửa 444, tờ bản đồ số 06, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
CH00231 ngày 29/7/2010 do Ủy ban nhân dân huyện P, thành phố Cần Thơ cấp
- 5 -
cho hộ ông Hoàng V. Đất tọa lạc tại ấp N, N, huyện P, thành phố Cần
Thơ. (Kèm theo Bản trích đo địa chính số 1055/TTKTTNMT ngày 18/9/2023
của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố C).
Buộc bà Nguyễn Thị H giao căn nhà và vật kiến trúc, cây trồng tại phần đất
nêu trên cho ông Lê Hoàng V.
Ông Hoàng V nghĩa vụ trả cho Nguyễn Thị H stiền 87.229.985
đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền
còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ
luật Dân sự năm 2015.
Chi phí đo đạc, định giá: nguyên đơn, bị đơn mỗi người nộp 2.500.000
đồng, nguyên đơn đã đóng tạm ứng 5.000.000 đồng nên bị đơn hoàn trả
2.500.000 đồng cho nguyên đơn.
Án phí dân sthẩm: miễn án phí cho nguyên đơn, bị đơn. Ông V được
nhận lại số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí theo phiếu thu số 0007909 ngày
04/5/2023; ông T được nhận lại số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí theo phiếu
thu số 0006201 ngày 12/3/2024 tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện P.
Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể
từ ngày tuyên án.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều
2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a, 7b và
9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định
tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Nơi nhận:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
-
Các đương sự;
- TAND Tp. Cần Thơ;
- VKSND H. P;
- THA H. P;
- Lưu (HS - 2b).
Liêng Thị Hồng Hoa
Tải về
Bản án số 38/2024/DS-ST Bản án số 38/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 38/2024/DS-ST Bản án số 38/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất