Bản án số 37/2025/DS-ST ngày 10/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 4 - Đà Nẵng, TP Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng ủy quyền

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 37/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 37/2025/DS-ST ngày 10/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 4 - Đà Nẵng, TP Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng ủy quyền
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng ủy quyền
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân khu vực 4 - Đà Nẵng, TP Đà Nẵng
Số hiệu: 37/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 10/09/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: hấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trịnh Ngọc H.T, bà Dương Thị H về việc “Tranh chấp yêu cầu tuyên bố hợp đồng ủy quyền vô hiệu" đối với bị đơn ông Lê N.D. Tuyên bố Hợp đồng ủy quyền lập ngày 13/3/2025, số công chứng 0009xx, quyển số 01/2025/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng công chứng T giữa người uỷ quyền là ông Trịnh Ngọc H.T, bà Dương Thị H và người được uỷ quyền là ông Lê N.D vô hiệu
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
KHU VỰC 4 - ĐÀ NẴNG
Bản án số: 37/2025/DS-ST
Ngày: 10-9-2025
V/v "Tranh chấp hợp đồng ủy
quyền”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 4 - ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Mỹ Loan
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Nguyễn Thị Thủy
2. Bà Lê Thị Hoàng Thương
- Thư ký phiên tòa: Ông Lê Xuân Thắng - Thư ký Tòa án nhân dân khu vực 4
- Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 4 - Đà Nẵng tham gia phiên tòa:
Ông Huỳnh Công Hưng - Kiểm sát viên.
Ngày 10 tháng 9 năm 2025, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân khu vực
4 - Đà Nẵng xét xử thẩm công khai vụ án dân sự thụ s181/2025/TLST-DS
ngày 29 tháng 5 năm 2025 về việc Tranh chấp yêu cầu tuyên bố hợp đồng ủy
quyền vô hiệu” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 79/2025/QĐXXST-DS ngày
25 tháng 8 năm 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Trịnh Ngọc H.T, sinh năm 1991 và bà Dương Thị H, sinh
năm 1993; cùng địa chỉ: xx L , phường An Hải, TP Đà Nẵng. (Có mặt)
- Bị đơn: Ông N.D, sinh năm 1986; địa chỉ: Thôn N, a Tiến, TP Đà
Nẵng. (Có mặt)
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Văn phòng công chứng T ; địa chỉ:
Số xxx L n, phường T , TP Đà Nẵng. (Có đơn đề nghị vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện, trong qtrình tố tụng tại phiên tòa, nguyên đơn -
trình bày:
Ông Trịnh Ngọc H.T chủ xe ô BKS 92C-20x.xxtheo giấy chứng nhận
đăng ký xe ô số 92 013xxx do phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Quảng
Nam cấp ngày 13/7/2022.
Vào ngày 13/03/2025, Vợ chồng ông T bán xe ô BKS 92C 20x.xx cho ông
N.D làm hợp đồng uỷ quyền cho ông N.D tại phòng công chứng T số
xxx L- Đà Nẵng, sau khi hoàn tất hồ uquyền cho ông D thì phát hiện cả vợ
chồng T ông D khi mua bán không làm việc trực tiếp với nhau chỉ làm việc
với bên thứ 3 qua nhắn tin zalo với tài khoản tên Bánh Gạo” tài khoản lừa đảo,
bên bán bị lừa với giá mua cao 740.000.000₫ bên mua blừa n với giá thấp
2
620.000.000đ. Ông D đã chuyển tổng cộng 255.000.000đ cho số tài khoản bên
lừa đảo. Cùng ngày vợ chồng ông T ông D cùng trình báo lên quan cảnh sát
điều tra Công an Thành Phố Đà Nẵng, công an thành phố đã xác nhận đây là vụ lừa
đảo của bên thứ 3 và chặn đứng được dòng tiền của bên lừa đảo.
Vào ngày 18 tháng 4 năm 2025 công an thành phố Đà Nẵng đã bàn giao lại
đầy đủ số tiền 255.000.000đ cho ông D yêu cầu 2 bên giải quyết hồ uỷ quyền
theo thỏa thuận dân sự. Ông T ông D đã nhiều lần thỏa thuận để yêu cầu ông D
ra phòng ng chứng để huỷ hợp đồng uỷ quyền, mặc ông D đã nhận đủ tiền và
không bị thiệt hại nhưng ông D không htrợ huỷ công chứng uỷ quyền gây
khó dễ ép ông T bán xe giá rẻ cho ông D với giá 620.000.000đ rẻ hơn giá trị thực tế
của xe rất nhiều.
Ông T yêu cầu HĐXX tuyên bố Hợp đồng ủy quyền số công chứng 0009xx,
quyển số 01/2025TP/CC-SCC/HĐGD ngày 13/3/2025 hiệu. Ông T không yêu
cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu.
Nguyên đơn Dương Thị H thống nhất với ý kiến của ông Trịnh Ngọc
H.T.
* Trong quá trình giải quyết vụ án, tại phiên tòa bị đơn ông Lê N.D trình
bày:
Ngày 13/03/2025, ông D làm việc với một người tự xưng là T, có nhu cầu
bán chiếc xe BKS 92C-20x.xx, qua trao đổi thì T thông tin được biết chiếc xe đó
của T nhưng nhờ anh trai là ông Trịnh Ngọc H.T đứng tên trên giấy tờ. Khi gặp ông
Trịnh Ngọc H.T thì cũng được ông Trịnh Ngọc H.T xác nhận chiếc xe đó thuộc
sở hữu của gia đình, trùng khớp với những T giới thiệu.
Sau kiểm tra tình trạng và tính pháp của chiếc xe phù hợp nhu cầu, nên tôi
ông Trịnh Ngọc H.T hẹn 13h30’ ngày 13/03/2025 đến tại phòng công chứng T
địa chỉ tại s285 Duẩn, phường Chính Gián, quận Thanh Khê, thành phố Đà
Nẵng để kết Hợp đồng y quyền vviệc giao T quyền xử chiếc xe ô BKS
92C- 20x.xx qua cho ông D.
Tại thời điểm kết, ông D và vợ chồng ông T đã trao đổi trực tiếp thống
nhất giá mua xe 580.000.000 đồng. Theo thỏa thuận, ông D sẽ thanh toán trước
555.000.000 đồng, số tiền còn lại 25.000.000 đồng chờ kiểm tra các lỗi phạt
nguội sẽ thanh toán đủ số tiền.
Thực hiện theo yêu cầu của ông Trịnh Ngọc H.T, ông D đã chuyển số tiền
255.000.000 đồng vào tài khoản số 9857xxx tại ngân hàng ACB mang tên Trịnh Thị
H.T- người do ông Trịnh Ngọc H.T chỉ định. T tiếp tục yêu cầu ông D chuyển
300.000.000 đồng, còn lại vào một tài khoản lạ, không phải do ông Trịnh Ngọc H.T
chỉ định. nghi ngờ dấu hiệu bất thường, ông D đã không thực hiện theo yêu
cầu đó mà chỉ đồng ý thanh toán theo chỉ dẫn của ông Trịnh Ngọc H.T. Sau đó, ông
D phát hiện có dấu hiệu lừa đảo đã trình báo công an. Vụ việc được điều tra
số tiền 255.000.000 đồng đã được quan công an thu hồi hoàn trả lại cho ông
D (Vì ông Trịnh Ngọc H.T từ chối nhận).
Tuy nhiên, trong suốt quá trình xảy ra sự việc, ông Trịnh Ngọc H.T - bà
Dương Thị H không hỗ trợ ông D giải quyết chỉ thông báo với ông D là hợp
3
đồng vô hiệu, yêu cầu ông D ra hủy hợp đồng, phủ nhận giao dịch khởi kiện yêu
cầu tuyên hợp đồng hiệu. Đây là hành vi tH thiện chí không sở, vì việc
thanh toán là thực hiện đúng theo hướng dẫn và xác nhận của chính ông Trịnh Ngọc
H.T. Từ thời điểm giao tiền cho đến thời điểm hiện tại, các giấy tờ liên quan đến
giao dịch và chiếc xe BKS 92C-20x.xxđều do ông Trịnh Ngọc H.T - Dương Thị
H gisử dụng, mặc ông D người hợp đồng đã thanh toán tiền theo
đúng yêu cầu ban đầu. Như vậy, việc ký kết hợp đồng và thoả thuận của hai bên đều
trên cơ sở tự nguyện. Bên bán muốn chuyển quyền sở hữu tài sản, bên mua muốn sở
hữu tài sản là chiếc xe nêu trên và trong quá trình đó hai bên đều thực hiện theo quy
định của pháp luật, chuyển khoản như đã thương lượng. Tuy nhiên, khi gặp scố
thì ông T và bà H không có thiện chí hợp tác, không giao phương tiện và hồ sơ pháp
cũng như hỗ trợ ông D trong việc làm việc với quan chức năng để thu hồi số
tiền bị chiếm đoạt, mà đáng lẽ ra việc đó hai ông bà phải chủ động vì thực tế tiền đã
chuyển theo đúng yêu cầu, chỉ định tài khoản của ông bà. Nếu ông D không tích cực
làm việc với cơ quan chức năng và cơ quan chức năng không xử lý nhanh chóng thì
ông D khả năng cao sẽ mất số tiền là 255.000.000 đồng trong khi xe ông T và bà
H vẫn đang sử dụng chưa bàn giao chiếc xe cho đến nay. Việc ông Trịnh Ngọc
H.T tự giao tiếp với bên thứ ba để thoả thuận bán giá cao hơn và giấu ông D là hành
vi vi phạm nghĩa vụ trung thực, thiện chí trong giao dịch dân sự. Về giá bán
740.000.000 đồng thì tại thời điểm giao kết Hợp đồng y quyền số 0009xx ngày
13/3/2025, ông D và ông Trịnh Ngọc H.T - Dương Thị H đã có trao đổi trực tiếp
thống nhất về giá trị chuyển nhượng chiếc xe chỉ 580.000.000 đồng. Điều này
cho thấy ông T H dấu hiệu không trung thực trong việc giao dịch che
giấu thông tin (Vì ông T đã ẩn hết những thông tin), gây thiệt hại trực tiếp cho ông
D cả về mặt tài chính lẫn quyền lợi pháp lý. Việc bên bán đưa ra mức giá khác trong
các trao đổi với bên thứ ba không liên quan, nhưng lại không thông báo cho ông D
người trực tiếp ký hợp đồng chuyển tiền theo yêu cầu của ông Trịnh Ngọc H.T
hành vi vi phạm nguyên tắc thiện chí trung thực khi giao kết hợp đồng. Đề
nghị ông T H phải tiếp tục Hợp đồng ủy quyền s0009xx ngày 13/03/2025
theo quy định của pháp luật. Yêu cầu ông Trịnh Ngọc H.T - Dương Thị H tiếp
tục thực hiện nghĩa vụ theo Hợp đồng ủy quyền số 0009xx, giao xe đúng hiện trạng
như thời điểm đã thoả thuận, giao các giấy thợp pháp liên quan đến chiếc xe BKS
92C-20x.xxnhư đã thỏa thuận tại thời điểm kết Hợp đồng. Trong qtrình giải
quyết vụ án, ông D thống nhất hủy Hợp đồng ủy quyền số 0009xx ký ngày
13/03/2025 với ông T, bà H với điều kiện ông T, bà H phải hỗ trợ cho ông D là 10%
giá trị mua bán chiếc xe các bên đã thỏa thuận (580.000.000đ) 58.000.000
đồng hoặc vợ chồng ông T phải có thái độ thiện chí xin lỗi ông. Ông D xác định đây
chỉ là yêu cầu nguyên đơn hỗ trợ chứ không phải là yêu cầu phản tố.
4
Tại văn bản trình bày ý kiến số 125/VB ngày 29/7/2025, người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan Văn phòng công chứng T có văn bản trình bày ý kiến: Hợp đồng
ủy quyền số công chứng 0009xx, quyển số 01/2025TP/CC-SCC/HĐGD ngày
13/3/2025 được thực hiện đúng quy định, không trái đạo đức hội. Tại thời điểm
công chứng các bên đầy đủ năng lực hành vi dân sự, tài sản ủy quyền không
tranh chấp, ngăn chặn của cơ quan có thẩm quyền.
V thành phn h trình tự, th tc công chứng đối vi các hợp đồng y
quyền nêu trên đã thực hiện theo đúng quy định ca Lut Công chng và các văn
bn pháp luật liên quan. Văn phòng công chng xin vng mt trong sut q
trình gii quyết v án.
Tại phiên toà, nguyên đơn ông T và H giữ nguyên yêu cầu HĐXX tuyên
bố Hợp đồng ủy quyền số công chứng 0009xx, quyển số 01/2025TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 13/3/2025 hiệu. Ông T, H không yêu cầu giải quyết hậu
quả của hợp đồng vô hiệu.
Tại phiên tòa, bị đơn ông N.D không đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn
về việc đề nghị tuyên bố Hợp đồng ủy quyền số công chứng 0009xx, quyển số
01/2025TP/CC-SCC/HĐGD ngày 13/3/2025 tại VPCC T hiệu. Đề nghị HĐXX
giải quyết theo quy định của pháp luật. Ông D rút yêu cầu ông Trịnh Ngọc H.T
Dương Thị H hỗ trợ 58.000.000 đồng (10% giá trị mua bán chiếc xe các bên
đã thỏa thuận). Xét đây là sự tự nguyện của ông Lê N.D nên HĐXX ghi nhận.
Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Khu vực 4 - Đà Nẵng
phát biểu:
Về thủ tục tố tụng: Toà án nhân dân Khu vực 4 - Đà Nẵng thụ vụ án
đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều 26 điểm a khoản 1 Điều 35,
điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Trong quá trình tố tụng và tại phiên
tòa hôm nay, Thẩm phán và Hội đồng xét xử, Thư ký đã tuân thủ đúng các quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Việc chấp hành pháp luật của đương sự: Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định
tại điều 70, 71, 73 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 117, 127, 131 của
Bộ luật Dân schấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trịnh Ngọc H.T,
bà Dương Thị H tuyên bố Hợp đồng ủy quyền giữa bên ủy quyền là ông Trịnh Ngọc
H.T Dương ThH bên được ủy quyền ông N.D được VPCC T công
chứng ngày 13/3/2025 vô hiệu. Hậu quả của giao dịch đã tkhôi phục tình trạng
ban đầu nên không đề cập.
Về án phí: Do chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên bị đơn ông
N.D phải chịu theo quy định. Tại phiên tòa nguyên đơn tnguyện chịu án phí
DSST nên đề nghị chấp nhận sự tự nguyện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
5
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ ván được thẩm tra
tại phiên tòa căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đủ
cơ sở để nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Ông Trịnh Ngọc H.T Dương Thị H khởi kiện đối với bđơn ông
N.D địa chỉ tại thôn N, Hòa Tiến, TP Đà Nẵng về việc yêu cầu Tòa án tuyên
bố Hợp đồng ủy quyền số công chứng 0009xx, quyển số 01/2025TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 13/3/2025 được lập tại Văn phòng Công chứng T vô hiệu. Do đó
HĐXX xác định quan hệ tranh chấp là Tranh chấp yêu cầu tuyên bố hợp đồng ủy
quyền hiệu". Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 điểm a khoản
1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, tranh chấp phát sinh giữa nguyên đơn với bị đơn
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Khu vực 4 - Đà Nẵng.
[2] Về nội dung vụ án:
Ngày 13/03/2025, ông Trịnh Ngọc H.T, Dương Thị H ông N.D lập
Hợp đồng ủy quyền số công chứng 0009xx, quyển số 01/2025TP/CC-SCC/HĐGD
ngày 13/3/2025 giữa bên y quyền ông Trịnh Ngọc H.T, Dương Thị H cho
bên được ủy quyền ông N.D tại phòng công chứng T số xxx L- Đà Nẵng đối
với chiếc xe ô tô BKS 92C-20x.xx. Sau khi hoàn tất hồ sơ u quyền, ông Lê N.D đã
chuyển số tiền 255.000.000 đồng vào tài khoản số 9857xxx tại ngân hàng ACB
mang tên Trịnh Thị H.T- người do ông Trịnh Ngọc H.T chỉ định, ngoài ra tài khoản
zalo Bánh gạo” yêu cầu ông D chuyển số tiền còn lại vào một tài khoản lạ, không
phải do ông Trịnh Ngọc H.T chỉ định. nghi ngờ dấu hiệu bất thường, ông D
đã không thực hiện theo yêu cầu đó mà chỉ đồng ý thanh toán theo chỉ dẫn của ông
Trịnh Ngọc H.T. Ngoài ra, vchồng ông T ông D phát hiện quá trình trao đổi,
thoả thuận mua n xe ô BKS 92C 20x.xx, các bên đều không làm việc trực tiếp
với nhau chỉ làm việc với bên thứ 3 qua nhắn tin zalo với tài khoản mang tên
“Bánh Gạo”. Nghi ngờ bị người khác lừa đảo nên vợ chồng ông T và ông D đã trình
báo quan cảnh sát điều tra Công an Thành Phố Đà Nẵng. Sau khi điều tra, ngày
18 tháng 4 năm 2025 Công an thành phố Đà Nẵng đã bàn giao lại đầy đủ số tiền
255.000.000đ cho ông D. Do các bên không thoả thuận được việc cùng nhau đến
văn phòng công chứng để huỷ hợp đồng uỷ quyền nên ông T, bà H khởi kiện yêu
cầu Tòa án giải quyết tuyên bố Hợp đồng ủy quyền số công chứng 0009xx, quyển
số 01/2025TP/CC-SCC/HĐGD ngày 13/3/2025 được lập tại Văn phòng ng
chứng T hiệu. Ông T H không yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng
vô hiệu.
Xét thấy, Hợp đồng ủy quyền lập ngày 13/3/2025 tại Văn phòng Công chứng
T với nội dung bên được ủy quyền (ông N.D) được quản lý, sử dụng xe ô
BKS 92C-20x.xx, liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để giải quyết tất cả những vấn
đề liên quan đến xe ô BKS 92C-20x.xx…được quyền bán, tặng cho, thế chấp,
cho thuê…Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên toà, ông
6
T, H ông D đều thừa nhận trên thực tế thoả thuận về việc mua bán xe ô
BKS 92C-20x.xx. Sau khi hoàn tất hồ ủy quyền, vợ chồng ông T ông D phát
hiện trong quá trình trao đổi, thoả thuận mua bán xe ô nói trên, các bên đều
không làm việc trực tiếp với nhau mà chỉ làm việc với bên thứ 3 qua nhắn tin zalo
với tài khoản mang tên “Bánh Gạo”. Những thông tin ông T, H tiếp nhận từ tài
khoản “Bánh gạo” hoàn T khác với những thông tin mà tài khoản “Bánh Gạo” cung
cấp cho ông D. Do vậy, sở để xác định Hợp đồng ủy quyền ngày 13/3/2025,
có số công chứng 0009xx, quyển số 01/2025TP/CC-SCC/HĐGD được lập tại Văn
phòng Công chứng T không đúng với ý chí tự nguyện thực sự của các bên mà do bị
lừa dối bởi bên thứ ba. Điều 127 của BLDS quy định: Khi một n tham gia giao
dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì quyền yêu cầu Tòa án
tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
Lừa dối trong giao dịch dân shành vi cố ý của một bên hoặc của người
thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc
nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó”.
Do đó, ông Trịnh Ngọc H.T, Dương Thị H khởi kiện yêu cầu HĐXX
tuyên bố Hợp đồng ủy quyền số công chứng 0009xx, quyển số 01/2025TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 13/3/2025 được lập tại Văn phòng Công chứng T giữa người u
quyền ông Trịnh Ngọc H.T, Dương Thị H người được uquyền ông Lê N.D
vô hiệu là có căn cứ nên HĐXX chấp nhận.
Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn không yêu cầu giải quyết hậu
quả của hợp đồng hiệu. Quá trình điều tra, ông N.D đã nhận lại stiền
255.000.000 đồng, ông T H chưa nhận được số tiền mua bán xe và xe ô tô KS
92C-20x.xxvẫn thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ông T H. Hậu quả của giao
dịch đã tự khôi phục tình trạng ban đầu nên HĐXX không xem xét.
[3] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn ông Lê
N.D phải chịu án phí DSST. Tuy nhiên, nguyên đơn ông Trịnh Ngọc H.T,
Dương Thị H tự nguyện chịu án phí dân sự thẩm nên HĐXX chấp nhận sự tự
nguyện này của nguyên đơn.
[4] Theo những nhận định như trên, Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm
của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ:
- Căn cứ 116, 117, 122, 127, 407, 562 Bộ luật Dân sự;
- Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;
Điều 144; Điều 147; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, sửa đổi
bổ sung năm 2025;
7
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trịnh Ngọc H.T,
Dương Thị H vviệc Tranh chấp yêu cầu tuyên bố hợp đồng ủy quyền hiệu"
đối với bị đơn ông Lê N.D.
Tuyên bố Hợp đồng y quyền lập ngày 13/3/2025, số công chứng 0009xx,
quyển số 01/2025/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng công chứng T giữa người u
quyền ông Trịnh Ngọc H.T, Dương Thị H người được uỷ quyền ông
N.D vô hiệu.
2. Về án phí dân sự thẩm: Nguyên đơn ông Trịnh Ngọc H.T, bà Dương
Thị H tự nguyện chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự thẩm.
Được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp
theo biên lai thu số 0008677 ngày 28/5/2025 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện
Hòa Vang, TP Đà Nẵng (nay phòng Thi hành án dân sự khu vực 4 - Đà Nẵng).
Ông Trịnh Ngọc H.T, bà Dương Thị H đã nộp xong án phí DSST.
3. Về quyền kháng cáo: Đương sự mặt tại phiên tòa quyền kháng cáo
trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành
án dân sự.Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi
hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND KV4-Đà Nẵng;
- Phòng THADS KV 4 Đà Nẵng;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
(đã ký)
Nguyễn Thị Mỹ Loan
8
TÒA ÁN NHÂN DÂN
KHU VC 4 -ĐÀNNG
Số: 04/2025/QĐ-SCBSBA
CNG HÒA XÃ HI CH NGHĨA VIT NAM
Độc lp - T do - Hnh phúc
Đà Nẵng, ngày 25 tháng 9 năm 2025
QUYẾT ĐỊNH
SA CHA, B SUNG BẢN ÁN SƠ THẨM
Căn cứ vào Điều 268 ca B lut T tng dân s năm 2015, sửa đổi b sung
năm 2025;
Xét thy cn sa cha, b sung bn án do thiếu sót trong bn án s
37/2025/DS-ST ngày 10 tháng 9 năm 2025 ca Toà án nhân dân khu vc 4 Đà
Nẵng, TP Đà Nẵng đã xét xử thẩm v án dân s v Tranh chấp yêu cầu tuyên
bố hợp đồng ủy quyền vô hiệu" gia:
- Nguyên đơn: Ông Trịnh Ngọc H.T, sinh năm 1991 và bà Dương Thị H, sinh
năm 1993; cùng địa chỉ: xx L , phường An Hải, TP Đà Nẵng
- Bị đơn: Ông N.D, sinh năm 1986; địa chỉ: Thôn N, Hòa Tiến, TP Đà
Nẵng.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Văn phòng công chứng ; địa chỉ:
Số xxx L, phường , TP Đà Nẵng.
QUYẾT ĐỊNH:
Sa cha, b sung Bn án s 37/2025/DS-ST ngày 10 tháng 9 năm 2025 ca
Toà án nhân dân khu vc 4 Đà Nẵng, TP Đà Nẵng như sau:
Ti trang 7, phn Quyết định ca bản án đã ghi:
3. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo
trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.”
Nay sa cha, b sung như sau:
3. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo
bn án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đƣơng sự vắng mặt tại phiên
tòa quyền kháng cáo bn án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận đƣợc
bản án hoặc bản án đƣợc niêm yết”.
THM PHÁN - CH TA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Nguyn Th M Loan
9
10
11
12
Tải về
Bản án số 37/2025/DS-ST Bản án số 37/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 37/2025/DS-ST Bản án số 37/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất