Bản án số 37/2025/DS-ST ngày 10/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 4 - Đà Nẵng, TP Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng ủy quyền
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 37/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 37/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 37/2025/DS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 37/2025/DS-ST ngày 10/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 4 - Đà Nẵng, TP Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng ủy quyền |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng ủy quyền |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | Tòa án nhân dân khu vực 4 - Đà Nẵng, TP Đà Nẵng |
| Số hiệu: | 37/2025/DS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 10/09/2025 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | hấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trịnh Ngọc H.T, bà Dương Thị H về việc “Tranh chấp yêu cầu tuyên bố hợp đồng ủy quyền vô hiệu" đối với bị đơn ông Lê N.D. Tuyên bố Hợp đồng ủy quyền lập ngày 13/3/2025, số công chứng 0009xx, quyển số 01/2025/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng công chứng T giữa người uỷ quyền là ông Trịnh Ngọc H.T, bà Dương Thị H và người được uỷ quyền là ông Lê N.D vô hiệu |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
KHU VỰC 4 - ĐÀ NẴNG
Bản án số: 37/2025/DS-ST
Ngày: 10-9-2025
V/v "Tranh chấp hợp đồng ủy
quyền”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 4 - ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Mỹ Loan
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Nguyễn Thị Thủy
2. Bà Lê Thị Hoàng Thương
- Thư ký phiên tòa: Ông Lê Xuân Thắng - Thư ký Tòa án nhân dân khu vực 4
- Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 4 - Đà Nẵng tham gia phiên tòa:
Ông Huỳnh Công Hưng - Kiểm sát viên.
Ngày 10 tháng 9 năm 2025, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân khu vực
4 - Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 181/2025/TLST-DS
ngày 29 tháng 5 năm 2025 về việc “Tranh chấp yêu cầu tuyên bố hợp đồng ủy
quyền vô hiệu” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 79/2025/QĐXXST-DS ngày
25 tháng 8 năm 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Trịnh Ngọc H.T, sinh năm 1991 và bà Dương Thị H, sinh
năm 1993; cùng địa chỉ: xx L , phường An Hải, TP Đà Nẵng. (Có mặt)
- Bị đơn: Ông Lê N.D, sinh năm 1986; địa chỉ: Thôn N, xã Hòa Tiến, TP Đà
Nẵng. (Có mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Văn phòng công chứng T ; địa chỉ:
Số xxx L n, phường T , TP Đà Nẵng. (Có đơn đề nghị vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện, trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa, nguyên đơn -
trình bày:
Ông Trịnh Ngọc H.T là chủ xe ô tô BKS 92C-20x.xxtheo giấy chứng nhận
đăng ký xe ô tô số 92 013xxx do phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Quảng
Nam cấp ngày 13/7/2022.
Vào ngày 13/03/2025, Vợ chồng ông T bán xe ô tô BKS 92C 20x.xx cho ông
Lê N.D và có làm hợp đồng uỷ quyền cho ông Lê N.D tại phòng công chứng T số
xxx L- Đà Nẵng, sau khi hoàn tất hồ sơ uỷ quyền cho ông D thì phát hiện cả vợ
chồng T và ông D khi mua bán không làm việc trực tiếp với nhau mà chỉ làm việc
với bên thứ 3 qua nhắn tin zalo với tài khoản tên “Bánh Gạo” là tài khoản lừa đảo,
bên bán bị lừa với giá mua cao là 740.000.000₫ và bên mua bị lừa bán với giá thấp
2
là 620.000.000đ. Ông D đã chuyển tổng cộng 255.000.000đ cho số tài khoản bên
lừa đảo. Cùng ngày vợ chồng ông T và ông D cùng trình báo lên cơ quan cảnh sát
điều tra Công an Thành Phố Đà Nẵng, công an thành phố đã xác nhận đây là vụ lừa
đảo của bên thứ 3 và chặn đứng được dòng tiền của bên lừa đảo.
Vào ngày 18 tháng 4 năm 2025 công an thành phố Đà Nẵng đã bàn giao lại
đầy đủ số tiền 255.000.000đ cho ông D và yêu cầu 2 bên giải quyết hồ sơ uỷ quyền
theo thỏa thuận dân sự. Ông T và ông D đã nhiều lần thỏa thuận để yêu cầu ông D
ra phòng công chứng để huỷ hợp đồng uỷ quyền, mặc dù ông D đã nhận đủ tiền và
không bị thiệt hại gì nhưng ông D không hỗ trợ huỷ công chứng uỷ quyền và gây
khó dễ ép ông T bán xe giá rẻ cho ông D với giá 620.000.000đ rẻ hơn giá trị thực tế
của xe rất nhiều.
Ông T yêu cầu HĐXX tuyên bố Hợp đồng ủy quyền số công chứng 0009xx,
quyển số 01/2025TP/CC-SCC/HĐGD ngày 13/3/2025 vô hiệu. Ông T không yêu
cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu.
Nguyên đơn – bà Dương Thị H thống nhất với ý kiến của ông Trịnh Ngọc
H.T.
* Trong quá trình giải quyết vụ án, tại phiên tòa bị đơn – ông Lê N.D trình
bày:
Ngày 13/03/2025, ông D có làm việc với một người tự xưng là T, có nhu cầu
bán chiếc xe BKS 92C-20x.xx, qua trao đổi thì T thông tin được biết chiếc xe đó là
của T nhưng nhờ anh trai là ông Trịnh Ngọc H.T đứng tên trên giấy tờ. Khi gặp ông
Trịnh Ngọc H.T thì cũng được ông Trịnh Ngọc H.T xác nhận là chiếc xe đó thuộc
sở hữu của gia đình, trùng khớp với những gì T giới thiệu.
Sau kiểm tra tình trạng và tính pháp lý của chiếc xe phù hợp nhu cầu, nên tôi
và ông Trịnh Ngọc H.T hẹn 13h30’ ngày 13/03/2025 đến tại phòng công chứng T
địa chỉ tại số 285 Lê Duẩn, phường Chính Gián, quận Thanh Khê, thành phố Đà
Nẵng để ký kết Hợp đồng ủy quyền về việc giao T quyền xử lý chiếc xe ô tô BKS
92C- 20x.xx qua cho ông D.
Tại thời điểm ký kết, ông D và vợ chồng ông T đã trao đổi trực tiếp và thống
nhất giá mua xe là 580.000.000 đồng. Theo thỏa thuận, ông D sẽ thanh toán trước
555.000.000 đồng, số tiền còn lại là 25.000.000 đồng chờ kiểm tra các lỗi phạt
nguội sẽ thanh toán đủ số tiền.
Thực hiện theo yêu cầu của ông Trịnh Ngọc H.T, ông D đã chuyển số tiền
255.000.000 đồng vào tài khoản số 9857xxx tại ngân hàng ACB mang tên Trịnh Thị
H.T- người do ông Trịnh Ngọc H.T chỉ định. Bà T tiếp tục yêu cầu ông D chuyển
300.000.000 đồng, còn lại vào một tài khoản lạ, không phải do ông Trịnh Ngọc H.T
chỉ định. Vì nghi ngờ có dấu hiệu bất thường, ông D đã không thực hiện theo yêu
cầu đó mà chỉ đồng ý thanh toán theo chỉ dẫn của ông Trịnh Ngọc H.T. Sau đó, ông
D phát hiện có dấu hiệu lừa đảo và đã trình báo công an. Vụ việc được điều tra và
số tiền 255.000.000 đồng đã được cơ quan công an thu hồi và hoàn trả lại cho ông
D (Vì ông Trịnh Ngọc H.T từ chối nhận).
Tuy nhiên, trong suốt quá trình xảy ra sự việc, ông Trịnh Ngọc H.T - bà
Dương Thị H không hỗ trợ ông D giải quyết mà chỉ thông báo với ông D là hợp
3
đồng vô hiệu, yêu cầu ông D ra hủy hợp đồng, phủ nhận giao dịch và khởi kiện yêu
cầu tuyên hợp đồng vô hiệu. Đây là hành vi tH thiện chí và không có cơ sở, vì việc
thanh toán là thực hiện đúng theo hướng dẫn và xác nhận của chính ông Trịnh Ngọc
H.T. Từ thời điểm giao tiền cho đến thời điểm hiện tại, các giấy tờ liên quan đến
giao dịch và chiếc xe BKS 92C-20x.xxđều do ông Trịnh Ngọc H.T - Bà Dương Thị
H giữ và sử dụng, mặc dù ông D là người có hợp đồng và đã thanh toán tiền theo
đúng yêu cầu ban đầu. Như vậy, việc ký kết hợp đồng và thoả thuận của hai bên đều
trên cơ sở tự nguyện. Bên bán muốn chuyển quyền sở hữu tài sản, bên mua muốn sở
hữu tài sản là chiếc xe nêu trên và trong quá trình đó hai bên đều thực hiện theo quy
định của pháp luật, chuyển khoản như đã thương lượng. Tuy nhiên, khi gặp sự cố
thì ông T và bà H không có thiện chí hợp tác, không giao phương tiện và hồ sơ pháp
lý cũng như hỗ trợ ông D trong việc làm việc với cơ quan chức năng để thu hồi số
tiền bị chiếm đoạt, mà đáng lẽ ra việc đó hai ông bà phải chủ động vì thực tế tiền đã
chuyển theo đúng yêu cầu, chỉ định tài khoản của ông bà. Nếu ông D không tích cực
làm việc với cơ quan chức năng và cơ quan chức năng không xử lý nhanh chóng thì
ông D có khả năng cao sẽ mất số tiền là 255.000.000 đồng trong khi xe ông T và bà
H vẫn đang sử dụng và chưa bàn giao chiếc xe cho đến nay. Việc ông Trịnh Ngọc
H.T tự giao tiếp với bên thứ ba để thoả thuận bán giá cao hơn và giấu ông D là hành
vi vi phạm nghĩa vụ trung thực, thiện chí trong giao dịch dân sự. Về giá bán
740.000.000 đồng thì tại thời điểm giao kết Hợp đồng ủy quyền số 0009xx ngày
13/3/2025, ông D và ông Trịnh Ngọc H.T - bà Dương Thị H đã có trao đổi trực tiếp
và thống nhất về giá trị chuyển nhượng chiếc xe chỉ là 580.000.000 đồng. Điều này
cho thấy ông T và bà H có dấu hiệu không trung thực trong việc giao dịch và che
giấu thông tin (Vì ông T đã ẩn hết những thông tin), gây thiệt hại trực tiếp cho ông
D cả về mặt tài chính lẫn quyền lợi pháp lý. Việc bên bán đưa ra mức giá khác trong
các trao đổi với bên thứ ba không liên quan, nhưng lại không thông báo cho ông D –
người trực tiếp ký hợp đồng và chuyển tiền theo yêu cầu của ông Trịnh Ngọc H.T –
là hành vi vi phạm nguyên tắc thiện chí và trung thực khi giao kết hợp đồng. Đề
nghị ông T bà H phải tiếp tục Hợp đồng ủy quyền số 0009xx ký ngày 13/03/2025
theo quy định của pháp luật. Yêu cầu ông Trịnh Ngọc H.T - bà Dương Thị H tiếp
tục thực hiện nghĩa vụ theo Hợp đồng ủy quyền số 0009xx, giao xe đúng hiện trạng
như thời điểm đã thoả thuận, giao các giấy tờ hợp pháp liên quan đến chiếc xe BKS
92C-20x.xxnhư đã thỏa thuận tại thời điểm ký kết Hợp đồng. Trong quá trình giải
quyết vụ án, ông D thống nhất hủy Hợp đồng ủy quyền số 0009xx ký ngày
13/03/2025 với ông T, bà H với điều kiện ông T, bà H phải hỗ trợ cho ông D là 10%
giá trị mua bán chiếc xe mà các bên đã thỏa thuận (580.000.000đ) là 58.000.000
đồng hoặc vợ chồng ông T phải có thái độ thiện chí xin lỗi ông. Ông D xác định đây
chỉ là yêu cầu nguyên đơn hỗ trợ chứ không phải là yêu cầu phản tố.

4
Tại văn bản trình bày ý kiến số 125/VB ngày 29/7/2025, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan Văn phòng công chứng T có văn bản trình bày ý kiến: Hợp đồng
ủy quyền số công chứng 0009xx, quyển số 01/2025TP/CC-SCC/HĐGD ngày
13/3/2025 được thực hiện đúng quy định, không trái đạo đức xã hội. Tại thời điểm
công chứng các bên có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, tài sản ủy quyền không có
tranh chấp, ngăn chặn của cơ quan có thẩm quyền.
Về thành phần hồ sơ và trình tự, thủ tục công chứng đối với các hợp đồng ủy
quyền nêu trên đã thực hiện theo đúng quy định của Luật Công chứng và các văn
bản pháp luật có liên quan. Văn phòng công chứng xin vắng mặt trong suốt quá
trình giải quyết vụ án.
Tại phiên toà, nguyên đơn ông T và bà H giữ nguyên yêu cầu HĐXX tuyên
bố Hợp đồng ủy quyền số công chứng 0009xx, quyển số 01/2025TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 13/3/2025 vô hiệu. Ông T, bà H không yêu cầu giải quyết hậu
quả của hợp đồng vô hiệu.
Tại phiên tòa, bị đơn ông Lê N.D không đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn
về việc đề nghị tuyên bố Hợp đồng ủy quyền số công chứng 0009xx, quyển số
01/2025TP/CC-SCC/HĐGD ngày 13/3/2025 tại VPCC T vô hiệu. Đề nghị HĐXX
giải quyết theo quy định của pháp luật. Ông D rút yêu cầu ông Trịnh Ngọc H.T và
bà Dương Thị H hỗ trợ 58.000.000 đồng (10% giá trị mua bán chiếc xe mà các bên
đã thỏa thuận). Xét đây là sự tự nguyện của ông Lê N.D nên HĐXX ghi nhận.
Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Khu vực 4 - Đà Nẵng
phát biểu:
Về thủ tục tố tụng: Toà án nhân dân Khu vực 4 - Đà Nẵng thụ lý vụ án là
đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều 26 và điểm a khoản 1 Điều 35,
điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Trong quá trình tố tụng và tại phiên
tòa hôm nay, Thẩm phán và Hội đồng xét xử, Thư ký đã tuân thủ đúng các quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Việc chấp hành pháp luật của đương sự: Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định
tại điều 70, 71, 73 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 117, 127, 131 của
Bộ luật Dân sự chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trịnh Ngọc H.T,
bà Dương Thị H tuyên bố Hợp đồng ủy quyền giữa bên ủy quyền là ông Trịnh Ngọc
H.T và bà Dương Thị H và bên được ủy quyền là ông Lê N.D được VPCC T công
chứng ngày 13/3/2025 là vô hiệu. Hậu quả của giao dịch đã tự khôi phục tình trạng
ban đầu nên không đề cập.
Về án phí: Do chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên bị đơn ông
Lê N.D phải chịu theo quy định. Tại phiên tòa nguyên đơn tự nguyện chịu án phí
DSST nên đề nghị chấp nhận sự tự nguyện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

5
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra
tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có đủ
cơ sở để nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Ông Trịnh Ngọc H.T và bà Dương Thị H khởi kiện đối với bị đơn ông Lê
N.D có địa chỉ tại thôn N, xã Hòa Tiến, TP Đà Nẵng về việc yêu cầu Tòa án tuyên
bố Hợp đồng ủy quyền có số công chứng 0009xx, quyển số 01/2025TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 13/3/2025 được lập tại Văn phòng Công chứng T vô hiệu. Do đó
HĐXX xác định quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp yêu cầu tuyên bố hợp đồng ủy
quyền vô hiệu". Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản
1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, tranh chấp phát sinh giữa nguyên đơn với bị đơn
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Khu vực 4 - Đà Nẵng.
[2] Về nội dung vụ án:
Ngày 13/03/2025, ông Trịnh Ngọc H.T, bà Dương Thị H và ông Lê N.D lập
Hợp đồng ủy quyền số công chứng 0009xx, quyển số 01/2025TP/CC-SCC/HĐGD
ngày 13/3/2025 giữa bên ủy quyền là ông Trịnh Ngọc H.T, bà Dương Thị H cho
bên được ủy quyền là ông Lê N.D tại phòng công chứng T số xxx L- Đà Nẵng đối
với chiếc xe ô tô BKS 92C-20x.xx. Sau khi hoàn tất hồ sơ uỷ quyền, ông Lê N.D đã
chuyển số tiền 255.000.000 đồng vào tài khoản số 9857xxx tại ngân hàng ACB
mang tên Trịnh Thị H.T- người do ông Trịnh Ngọc H.T chỉ định, ngoài ra tài khoản
zalo “Bánh gạo” yêu cầu ông D chuyển số tiền còn lại vào một tài khoản lạ, không
phải do ông Trịnh Ngọc H.T chỉ định. Vì nghi ngờ có dấu hiệu bất thường, ông D
đã không thực hiện theo yêu cầu đó mà chỉ đồng ý thanh toán theo chỉ dẫn của ông
Trịnh Ngọc H.T. Ngoài ra, vợ chồng ông T và ông D phát hiện quá trình trao đổi,
thoả thuận mua bán xe ô tô BKS 92C 20x.xx, các bên đều không làm việc trực tiếp
với nhau mà chỉ làm việc với bên thứ 3 qua nhắn tin zalo với tài khoản mang tên
“Bánh Gạo”. Nghi ngờ bị người khác lừa đảo nên vợ chồng ông T và ông D đã trình
báo cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành Phố Đà Nẵng. Sau khi điều tra, ngày
18 tháng 4 năm 2025 Công an thành phố Đà Nẵng đã bàn giao lại đầy đủ số tiền
255.000.000đ cho ông D. Do các bên không thoả thuận được việc cùng nhau đến
văn phòng công chứng để huỷ hợp đồng uỷ quyền nên ông T, bà H khởi kiện yêu
cầu Tòa án giải quyết tuyên bố Hợp đồng ủy quyền số công chứng 0009xx, quyển
số 01/2025TP/CC-SCC/HĐGD ngày 13/3/2025 được lập tại Văn phòng Công
chứng T vô hiệu. Ông T và bà H không yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng
vô hiệu.
Xét thấy, Hợp đồng ủy quyền lập ngày 13/3/2025 tại Văn phòng Công chứng
T với nội dung bên được ủy quyền (ông Lê N.D) được quản lý, sử dụng xe ô tô
BKS 92C-20x.xx, liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để giải quyết tất cả những vấn
đề liên quan đến xe ô tô BKS 92C-20x.xx…được quyền bán, tặng cho, thế chấp,
cho thuê…Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên toà, ông

6
T, bà H và ông D đều thừa nhận trên thực tế là thoả thuận về việc mua bán xe ô tô
BKS 92C-20x.xx. Sau khi hoàn tất hồ sơ ủy quyền, vợ chồng ông T và ông D phát
hiện trong quá trình trao đổi, thoả thuận mua bán xe ô tô nói trên, các bên đều
không làm việc trực tiếp với nhau mà chỉ làm việc với bên thứ 3 qua nhắn tin zalo
với tài khoản mang tên “Bánh Gạo”. Những thông tin ông T, bà H tiếp nhận từ tài
khoản “Bánh gạo” hoàn T khác với những thông tin mà tài khoản “Bánh Gạo” cung
cấp cho ông D. Do vậy, có cơ sở để xác định Hợp đồng ủy quyền ngày 13/3/2025,
có số công chứng 0009xx, quyển số 01/2025TP/CC-SCC/HĐGD được lập tại Văn
phòng Công chứng T không đúng với ý chí tự nguyện thực sự của các bên mà do bị
lừa dối bởi bên thứ ba. Điều 127 của BLDS quy định: “Khi một bên tham gia giao
dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án
tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người
thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc
nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó”.
Do đó, ông Trịnh Ngọc H.T, bà Dương Thị H khởi kiện yêu cầu HĐXX
tuyên bố Hợp đồng ủy quyền số công chứng 0009xx, quyển số 01/2025TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 13/3/2025 được lập tại Văn phòng Công chứng T giữa người uỷ
quyền ông Trịnh Ngọc H.T, bà Dương Thị H và người được uỷ quyền ông Lê N.D
vô hiệu là có căn cứ nên HĐXX chấp nhận.
Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn không yêu cầu giải quyết hậu
quả của hợp đồng vô hiệu. Quá trình điều tra, ông Lê N.D đã nhận lại số tiền là
255.000.000 đồng, ông T và bà H chưa nhận được số tiền mua bán xe và xe ô tô KS
92C-20x.xxvẫn thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ông T bà H. Hậu quả của giao
dịch đã tự khôi phục tình trạng ban đầu nên HĐXX không xem xét.
[3] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn ông Lê
N.D phải chịu án phí DSST. Tuy nhiên, nguyên đơn ông Trịnh Ngọc H.T, bà
Dương Thị H tự nguyện chịu án phí dân sự sơ thẩm nên HĐXX chấp nhận sự tự
nguyện này của nguyên đơn.
[4] Theo những nhận định như trên, Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm
của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ:
- Căn cứ 116, 117, 122, 127, 407, 562 Bộ luật Dân sự;
- Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;
Điều 144; Điều 147; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, sửa đổi
bổ sung năm 2025;

7
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trịnh Ngọc H.T, bà
Dương Thị H về việc “Tranh chấp yêu cầu tuyên bố hợp đồng ủy quyền vô hiệu"
đối với bị đơn ông Lê N.D.
Tuyên bố Hợp đồng ủy quyền lập ngày 13/3/2025, số công chứng 0009xx,
quyển số 01/2025/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng công chứng T giữa người uỷ
quyền là ông Trịnh Ngọc H.T, bà Dương Thị H và người được uỷ quyền là ông Lê
N.D vô hiệu.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn ông Trịnh Ngọc H.T, bà Dương
Thị H tự nguyện chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp
theo biên lai thu số 0008677 ngày 28/5/2025 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện
Hòa Vang, TP Đà Nẵng (nay là phòng Thi hành án dân sự khu vực 4 - Đà Nẵng).
Ông Trịnh Ngọc H.T, bà Dương Thị H đã nộp xong án phí DSST.
3. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo
trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành
án dân sự.Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi
hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND KV4-Đà Nẵng;
- Phòng THADS KV 4 – Đà Nẵng;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
(đã ký)
Nguyễn Thị Mỹ Loan

8
TÒA ÁN NHÂN DÂN
KHU VỰC 4 -ĐÀNẴNG
Số: 04/2025/QĐ-SCBSBA
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Đà Nẵng, ngày 25 tháng 9 năm 2025
QUYẾT ĐỊNH
SỬA CHỮA, BỔ SUNG BẢN ÁN SƠ THẨM
Căn cứ vào Điều 268 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, sửa đổi bổ sung
năm 2025;
Xét thấy cần sữa chữa, bổ sung bản án do thiếu sót trong bản án số
37/2025/DS-ST ngày 10 tháng 9 năm 2025 của Toà án nhân dân khu vực 4 – Đà
Nẵng, TP Đà Nẵng đã xét xử sơ thẩm vụ án dân sự về “Tranh chấp yêu cầu tuyên
bố hợp đồng ủy quyền vô hiệu" giữa:
- Nguyên đơn: Ông Trịnh Ngọc H.T, sinh năm 1991 và bà Dương Thị H, sinh
năm 1993; cùng địa chỉ: xx L , phường An Hải, TP Đà Nẵng
- Bị đơn: Ông Lê N.D, sinh năm 1986; địa chỉ: Thôn N, xã Hòa Tiến, TP Đà
Nẵng.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Văn phòng công chứng ; địa chỉ:
Số xxx L, phường , TP Đà Nẵng.
QUYẾT ĐỊNH:
Sữa chữa, bổ sung Bản án số 37/2025/DS-ST ngày 10 tháng 9 năm 2025 của
Toà án nhân dân khu vực 4 – Đà Nẵng, TP Đà Nẵng như sau:
Tại trang 7, phần Quyết định của bản án đã ghi:
“3. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo
trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.”
Nay sữa chữa, bổ sung như sau:
“3. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo
bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đƣơng sự vắng mặt tại phiên
tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận đƣợc
bản án hoặc bản án đƣợc niêm yết”.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND KV4-Đà Nẵng;
- Phòng THADS KV 4 – Đà Nẵng;
- Lưu hồ sơ vụ án.
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Nguyễn Thị Mỹ Loan

9
10
11
12
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 25/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 22/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 19/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 18/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 15/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 09/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 08/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 05/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 28/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 27/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 27/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 26/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 08/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 23/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 19/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 18/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 11/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 30/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm