Bản án số 357/2023/HS-PT ngày 17/05/2023 của TAND cấp cao về tội vận chuyển trái phép chất ma túy và tàng trữ trái phép chất ma túy
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
357_2023_HS-PT_ HA NOI
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
357_2023_HS-PT_ HA NOI
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 357/2023/HS-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 357/2023/HS-PT ngày 17/05/2023 của TAND cấp cao về tội vận chuyển trái phép chất ma túy và tàng trữ trái phép chất ma túy |
|---|---|
| Tội danh: | 250.Tội vận chuyển trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND cấp cao |
| Số hiệu: | 357/2023/HS-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 17/05/2023 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: | Vũ Anh T phạm tội vận chuyển trái phép chất ma túy và tàng trữ trái phép chất ma túy |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI HÀ NỘI
Bản án số 357/2023/HS-PT
Ngày 17 tháng 5 năm 2023
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
Thành phầ n Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Hoàng Văn Hạnh;
Các Thẩm phán: Ông Mai Anh Tài;
Ông Phạm Việt Hà.
Thư ký ghi biên bản phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thảo Trang, Thư ký Tòa
án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên
tòa: Ông Phạm Quốc Huy, Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 17 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội,
Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự
thụ lý số 754/2018/TLPT-HS ngày 03 tháng 10 năm 2018, đối với bị cáo Vũ
Anh T, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số
306/2018/HSST ngày 24/8/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
* Bị cáo có kháng cáo:
Vũ Anh T; năm sinh: 1972; KHKTT và chỗ ở: 80/7 Hoàng Đạo T1,
phường Kim G, quận Thanh Xuân, Hà Nội; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề
nghiệp: Không; Con ông: Vũ Hữu M; Sinh năm: 1945; Con bà: Đỗ Thị Đ (Đã
chết); Vợ: Nguyễn Thị Thúy H Sinh năm: 1973 (Đã ly hôn); Có 3 con, con lớn
sinh năm 1993, con bé sinh năm 2006; Danh chỉ bản số 0337 ngày 02.6.2017 tại
CA quận Long Biên.
Tiền án,tiền sự: 05 tiền án.
- Ngày 16/4/1997, Tòa án Q sự Q khu thủ đô tuyên phạt 54 tháng tù giam
về tội Trộm cắp tài sản (chưa thi hành án phần bồi thường)
- Ngày 14/5/1999, Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, Hà Nội tuyên phạt 24
tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản. (Đã xóa án tích).
- Ngày 07/11/2001, Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, Hà Nội tuyên
phạt 26 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản.(Đã xóa án tích)
- Ngày 17/11/2005, Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, Hà Nội tuyên
phạt 36 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản. (Đã xóa án tích).
2
- Ngày 14/4/2006, Tòa án nhân dân quậ n Ba Đình tuyên phạt 04 năm tù
giam về tội Trộm cắp tài sản, tổng hợp hình phạt với bản án năm 2005 là 07 năm
tù giam. (Đã xóa án tích)
Bị cáo Vũ Anh T bị tạm giữ ngày 30/5/2017; đến ngày 18/5/2020 Tòa án
nhân dân cấp cao tại Hà Nội Quyết định bắt buộc chữa bệnh đối với bị cáo Vũ
Anh T tạ i Viện pháp Y tâm thần trung ương; đến ngày 24/4/2023 Tòa án nhân
dân cấp cao tại Hà Nội Quyết định đình chỉ việc bắt buộc chữa bệnh đối với bị
cáo Vũ Anh T vì đã có kết luậ n bị cáo Vũ Anh T đã khỏi bệnh và không áp dụng
biện pháp chữa bệnh và tiếp tục thực hiện tạm giam bị cáo Vũ Anh T cho đến
nay; Có mặt.
* Đại diện hợp pháp cho bị cáo: Anh Vũ Quý P; sinh năm 1993. Trú tại:
80/7 Hoàng Đạ o T1, phường Kim G, quậ n Thanh Xuân, Hà Nội; Vắng mặt.
* Người bào chữa cho bị cáo Vũ Anh T do Toà án chỉ định: Luật sư
Nguyễn Thanh T2 - thuộc Đ oàn Luật sư thành phố Hà Nội; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại
phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 22 giờ 15 phút ngày 29/5/2017, tại khu vực cầu Phù thuộc tổ 11,
phường Phúc Lợi, quận Long Biên, thành phố Hà Nội, công an phường Thạch
Bàn, quận Long Biên, thành phố Hà Nội phối hợp với Đội Cảnh sát ma túy -
Công an quận Long Biên kiểm tra hành chính xe ô tô nhãn hiệu Innova BKS:
31F - 5633 đi hướng từ Lạng Sơn về Hà Nội, phát hiện Vũ Anh T ngồi ở vị trí
ghế lái, Nguyễn Hồng N ngồi ở ghế phụ bên trên, trong túi xách của N có 01 túi
nilon màu trắng, bên trong có 3 túi nilon nhỏ: 01 túi kích thước 6x4cm bên trong
có tinh thể màu trắng; 01 túi có 01 viên nén bị vỡ màu vàng nhạt kích thước
3x3cm, 01 túi nilon kích thước 2x3 (cm) chứa chất bột vàng nhạt. Kiểm tra sàn
xe sau ghế lái có 01 túi nilon màu đỏ bên trong chứa 04 túi nilon màu đen kích
thước 24x20 (cm), bên trong mỗi túi là một túi nilon màu trắng chứa các tinh thể
màu trắng.
Ngoài ra, còn thu giữ của T, N 04 điện thoại di động, 5.000.000 đồng
(năm triệu đồng). Tại thời điểm kiểm tra, trên xe còn có bạn của T ngồi ghế sau
là Hoàng Minh Q, sinh năm 1960, trú tại P77, Cll tập thể Kim L, phường Kim L,
quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
Ngày 30/5/2017, khám xét khẩn cấp chỗ ở của Vũ Anh T tại số 4B ngách
80/7 Hoàng Đạo T1, phường Kim G, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội thu
giữ 01 túi nilon kích thước 3x5 (cm) chứa tinh thể màu trắng.
Cùng ngày, khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Hồng N tại tổ 14
phường Đ ịnh C, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội thu giữ 01 cân điệ n tử và
02 coóng thủy tinh đã qua sử dụng.
Tại Bản kết luận giám định số 4625/ KLGĐ-PC54 ngày 07/8/2017 của
Phòng kỹ thuật hình sự - Công an TP Hà Nội kết luận: - 04 túi nilon thu giữ trên
3
sàn xe ô tô đều là ma túy loại Methamphetamine, trọng lượng từng túi lần lượt
là: 987,50 gam, 988,53 gam, 987,26 gam, 960,95 gam, tổng trọng lượng là:
3924,24 gam. - 03 túi nilon thu giữ trong túi xách của Nguyễn Hồng N gồm: 01
túi nilon chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại Methamphetamine, trọng lượng:
1,690 gam; 01 túi nilon chứa viên nén bị vỡ là ma túy loại MDMA, trọng lượng:
0,350 gam; 01 túi chứa chất bột màu vàng là ma túy loại Ketamine, trọng lượng:
0,640 gam. (BL 110)
Tại bản kết luận giám định số 4870/ KLGĐ-PC54 ngày 24/8/2017 của
Phòng kỹ thuật hình sự - Công an TP Hà Nội kết luận: 01 gói nilon chứa tinh thể
màu trắng thu giữ tại nơi ở của Vũ Anh T là ma túy loại Methamphetamine,
trọng lượng: 1,137 gam; 02 coóng thủy tinh và 01 cân điện tử thu tại nơi ở của
Nguyễn Hồng N đều có dính ma túy loại Methamphetamine. (BL 111)
Quá trình điều tra, Vũ Anh T khai nhận: T làm nghề lái xe con chở
khách, khoảng đầu năm 2017, T chở khách đi lễ chùa ở Lạng Sơn và quen biết
người phụ nữ tên là H1. Ngày 26/5/2017, T gặp lại H1, H1 đặt vấn đề thuê T
vận chuyển hàng “cấm” về Hà Nội sẽ trả công cao nên T đồng ý. Chiều ngày
28/5/2017, H1 gọi điện bảo T lên Lạng Sơn để chở hàng cho H1. T thuê xe ô tô
Innova 3IF - 5633 của anh Nguyễn Anh T3, sinh năm 1974, trú tại Tổ 31B,
phường Phương L1, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội rồi lái xe đón Hoàng
Minh Q là bạn xã hội và Nguyễn Hồng N là bạn gái của T đi Lạng Sơn chơi,
mục đích của T là lên Lạng Sơn lấy ma túy vận chuyển về Hà Nội cho H1.
Khoảng 10 giờ ngày 29/5/2017, khi đi đến khu vực thị trấn Hữu Lũng,
huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn, cả ba vào thuê nhà nghỉ Bình M1 và nhà nghỉ
Mai T4 để sử dụng ma túy. Đến 14 giờ 30 phút cùng ngày, T lái xe đưa Q và N
đi đến nhà H2, bạn của T ở đường Hùng V, thành phố Lạng Sơn chơi và sử dụng
ma túy.
Sau đó H1 liên lạc với T, hẹn ra đường Văn Vỹ, thành phố Lạng Sơn lấy
hàng. T, N, Q đợi ở trong xe ô tô thì có 01 thanh niên đi xe máy đưa cho T 01 túi
nilon màu đỏ bên trong bọc các túi nilon màu đen, người lái xe máy để đồ ở phía
sau ghế lái. T gọi lại cho H1 thì H1 nói đó là 04 túi ma túy “đá”, vận chuyển về
Hà Nội, sẽ có người đến nhận hàng và trả công là 20.000.000 đồng (hai mươi
triệu đồng).
T tiếp tục lái xe về Hà Nội, đến khu vực cầu Phù Đổng, Long Biên, Hà
Nội thì bị công an kiểm tra, bắt giữ. T khai không nói cho N và Q biết việc vận
chuyển ma túy về Hà Nội cho H1.
Về số ma túy thu giữ tại nhà Vũ Anh T khi khám xét, T khai mua của một
người đàn ông không quen biết vào khoảng tháng 02/2017 tại Ngã Tư Sở, Hà
Nội với giá 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng), mục đích để sử dụng.
Nguyễn Hồng N khai: N và T có mối quan hệ tình cảm. Chiều ngày
28/5/2017, T rủ N đi chơi và lái xe đến đón N, trên xe có Q, bạ n của T ngồi ghế
sau. N không biết T lên Lạng Sơn để vận chuyển ma túy. Số ma túy thu giữ
trong túi xách, N khai nhờ một người xe ôm tên H3 ở bến xe Nước Ngầm, mua
4
tại khu vực làng Huỳnh Cung, Văn Điển, Thanh Trì, Hà Nội vào tháng 12/2016
với giá 1.300.000 đồng (một triệu ba trăm nghìn đồng) để sử dụng nhưng chưa
sử dụng hết thì bị kiểm tra, bắt giữ. Chiếc cân điện tử và coóng thủy tinh có dính
ma túy thu tại nơi ở, N khai không biết do đâu mà có.
Hoàng Minh Q khai: đi cùng T lên Lạng Sơn để lễ ở chùa Tam Thanh và
được T cho sử dụng ma túy. Q không biết T vận chuyển ma túy. Cơ quan điều
tra đã ra Quyết định xử lý về hành chính đối với Q về hành vi sử dụng trái phép
chất ma túy.
Như vậy, Vũ Anh T phải chịu trách nhiệm về hành vi “Vận chuyển trái
phép chất ma túy và hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Nguyễn Hồng N
phải chịu trách nhiệm về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Đối với người phụ nữ tên H1 đã thuê T vận chuyển T khai khoảng 50
tuổi, cao khoảng lm50, nước da đen, dáng người đậm, không rõ họ, địa chỉ và
không nhớ số điện thoại nên không có cơ sở xác minh, làm rõ.
Đối với người phụ nữ tên H1 đã thuê T vận chuyển ma túy T khai khoảng
50 tuổi, cao khoảng 1m50, nước da đen, dáng ngườ i đậm, không rõ họ, địa chỉ
và không nhớ số điện thoại nên không có cơ sở xác minh, làm rõ.
Đối với chiếc xe ô tô nhãn hiệu Innova BKS 31F - 5633, quá trình điều tra
xác định là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Anh T3, không liên quan đến hành
vi vận chuyển trái phép chất ma túy của T nên Cơ quan điều tra – Công an quận
Long Biên đã có Quyết định xử lý vật chứng số 220 ngày 15/8/2017 về việc trả
lại chiếc xe trên cho anh T3.
Ngày 08/11/2017, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã ra bản
Cáo trạng số 380 đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội truy tố các bị can
Vũ Anh T về tội Vận chuyển trái phép chất ma túy theo Điểm e Khoản 4 Điều
194 và tội Tàng trữ trái phép chấ t ma túy theo khoản 1 Điều 194; Nguyễn Hồng
N về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 194 Bộ luậ t hình sự
năm 1999.
Ngày 25/12/2017, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã ra Quyết định trả
hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội để điều tra bổ sung vụ án
với lý do: gia đình bị cáo Vũ Anh T cung cấp các tài liệu cho thấy Vũ Anh T bị
bệnh tâm thần, yêu cầu Cơ quan điều tra giám định tâm thần đối với Vũ Anh T.
Ngày 21/02/2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã ra Quyết định
trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung theo yêu cầu trên.
Ngày 14/3/2018, Cơ quan điều tra – Công an thành phố Hà Nội đã ra
Quyết định tách vụ án hình sự số 20, từ vụ án Vậ n chuyển, Tàng trữ trái phép
chất ma túy thành vụ án Vận chuyể n, Tàng trữ trái phép chất ma túy đối với
hành vi phạm tội của Vũ Anh T để tiếp tục điều tra và vụ án Tàng trữ trái phép
chất ma túy đối với hành vi phạm tội của Nguyễ n Hồng N đồng thời kết luận
điều tra vụ án Tàng trữ trái phép chất ma túy đối với Nguyễn Hồng N và đề nghị
Viện kiểm sát truy tố. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã ra Quyết
5
định chuyển vụ án Nguyễn Hồng N đến Viện kiểm sát nhân dân quận Long
Biên, thành phố Hà Nội để truy tố theo thẩm quyền.
Ngày 09/2/2018, Cơ quan điều tra đã quyết định trưng cầu giám định tâm
thần và ngày 15/5/2018, Việ n pháp y tâm thần Trung Ương đã kết luận giám
định tâm thần đối với Vũ Anh T như sau:
- Trước, trong khi gây án ngày 28-29/5/2017 và tại thời điểm giám định,
Vũ Anh T có bệnh rối loạn cảm xúc thực tổn. Theo phân loại bệnh Quốc tế lần
thứ 10 năm 1992 bệnh có mã số F06.3
- Trước, trong khi gây án bệnh ở giai đoạn ổn định, bị can đủ khả năng
nhận thức và điều khiển hành vi.
- Tại thời điểm giám định bệ nh ở giai đoạn tái phát, bị can hạn chế khả
năng nhận thức và điều khiển hành vi.
Như vậy, căn cứ kết luận giám định tâm thần xác định tại thời điểm thực hiện
hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy ngày 28-29/5/2017, Vũ Anh T đủ khả
năng nhận thức và điều khiển hành vi nên Vũ Anh T phải chịu trách nhiệm về
việc vận chuyển trái phép 3924,24 gam Methamphetamine và tàng trữ trái
phép 1,137 gam Methamphetamine.
Tại Bản án sơ thẩm số 306/2017/HSST ngày 24/8/2017 của Tòa án nhân
dân thành phố Hà Nội đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Vũ Anh T đã phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma
túy” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng: Điểm e khoản 4 Điều 194, điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 55,
điểm s,q khoản 1,2 Điều 51 Bộ luật hình sự;
Xử phạt: Vũ Anh T Tù chung thân về tội “vận chuyển trái phép chất ma
túy”, 02 (hai) năm tù tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, hình phạt chung của
hai tội là Tù chung thân. Thời hạn tù tính từ ngày 30.5.2017.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm quyết định về thông báo quyền kháng cáo
theo quy định pháp luật.
Ngày 30/8/2018 bị cáo Vũ Anh T kháng cáo do bản án mà Tòa án nhân
dân thành phố Hà Nội xét xử đối với bị cáo Vũ Anh T là quá nặng.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay bị cáo Vũ Anh T thực hiện quyền im
lặng, không khai báo, không hợp tác trong quá trình xét xử phúc thẩm; bị cáo Vũ
Anh T và luật sư bào chữa cho bị cáo cũng không bổ sung thêm tình tiết giảm
nhẹ nào mới.
Người bào chữa cho bị cáo trình bày quan điểm: Đề nghị HĐXX xem xét
hành vi của bị cáo cũng như sức khoẻ của bị cáo giả m nhẹ một phần hình phạt
cho bị cáo.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu quan
điểm giải quyết vụ án:

6
Kháng cáo của bị cáo Vũ Anh T trong hạn luậ t định, đúng trình tự quy
định của pháp luật cần được chấp nhận để xét.
Về nội dung: Xét kháng cáo của bị cáo, tại phiên toà hôm nay bị cáo giữ
quyền im lặng, bị cáo tại phiên tòa không có thêm căn cứ nào, nên mức án tù
Chung thân đối với bị cáo là phù hợp. Đề nghị HĐXX không chấp nhậ n kháng
cáo của bị cáo, đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm đối với hình phạt của bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, kết quả tranh
tụng tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm. Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định
như sau:
Đơn kháng cáo của bị cáo Vũ Anh T đảm bảo về mặt hình thức, trong hạ n
luật định được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[1] Về tố tụng:
Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện
đầy đủ, đúng và đế n cấp phúc thẩm, đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật
Tố tụng hình sự. Bị cáo và người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc
khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng. Như vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng theo quy định của
Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] Về diễn biến hành vi của bị cáo Vũ Anh T:
Bị cáo T làm nghề lái xe con chở khách, khoảng đầu năm 2017, T chở
khách đi lễ chùa ở Lạng Sơn và quen biết người phụ nữ tên là H1. Ngày
26/5/2017, T gặp lại H1, H1 đặt vấn đề thuê T vận chuyển hàng “cấm” về Hà
Nội sẽ trả công cao nên T đồng ý. Chiều ngày 28/5/2017, H1 gọi điện bảo T lên
Lạng Sơn để chở hàng cho H1. T thuê xe ô tô Innova 3IF - 5633 của anh
Nguyễn Anh T3, sinh năm 1974, trú tại Tổ 31B, phường Phương L1, quận Đống
Đa, thành phố Hà Nội rồi lái xe đón Hoàng Minh Q là bạn xã hội và Nguyễn
Hồng N là bạn gái của T đi Lạng Sơn chơi, mục đích của T là lên Lạng Sơn lấy
ma túy vận chuyển
về Hà Nội cho H1.
Khoảng 10 giờ ngày 29/5/2017, khi đi đến khu vực thị trấn Hữu Lũng,
huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn, cả ba vào thuê nhà nghỉ Bình M1 và nhà nghỉ
Mai T4 để sử dụng ma túy. Đến 14 giờ 30 phút cùng ngày, T lái xe đưa Q và N
đi đến nhà H2, bạn của T ở đường Hùng V, thành phố Lạng Sơn chơi và sử dụng
ma túy.
Sau đó H1 liên lạc với T, hẹn ra đường Văn Vỹ, thành phố Lạng Sơn lấy
hàng. T, N, Q đợi ở trong xe ô tô thì có 01 thanh niên đi xe máy đưa cho T 01 túi
nilon màu đỏ bên trong bọc các túi nilon màu đen, người lái xe máy để đồ ở phía
sau ghế lái. T gọi lại cho H1 thì H1 nói đó là 04 túi ma túy “đá”, vận chuyển về
7
Hà Nội, sẽ có người đế n nhận hàng và trả công là 20.000.000 đồng (hai mươi
triệu đồng). T tiếp tục lái xe về Hà Nội, đến khu vực cầu Phù Đổng, Long Biên,
Hà Nội thì bị Công an kiểm tra, bắt giữ người cùng tang vật mà la túy.
Trong vụ án này còn có đối tượng Nguyễn Hồng N đã được giải quyết
bằng 1 vụ án khác; đối với Hoàng Minh Q khai: đi cùng T lên Lạng Sơn để lễ ở
chùa Tam Thanh và được T cho sử dụng ma túy. Q không biết T vận chuyển ma
túy. Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý về hành chính đối vớ i Q về hành vi
sử dụng trái phép chất ma túy.
Tang vật của vụ án đối với hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy có
khối lượng là 3924,24 gam Methamphetamine và thu giữ tại nơi ở của bị cáo
1,137 gam Methamphetamine.
Đối với hành vi phạm tội nêu trên, của bị cáo Vũ Anh T Tòa án cấp sơ
thẩm xét xử bị cáo Vũ Anh T về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo
quy định tại điểm e khoản 4 Điều 194 Bộ luật Hình sự (1999) và tội “Tàng trữ
trái phép chất ma túy” điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự (2015) là có
căn cứ, đúng pháp luật.
Xét hành vi phạm tội vận chuyển trái phép chất ma túy của bị cáo Vũ Anh T
là đặc biệt nghiêm trọng, không chỉ xâm phạm đến độc quyền của Nhà nước về
quản lý các chất ma túy, đồng thời việc tự do lưu hành chất ma túy mà còn là
nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác trong xã hội. Ngoài ra hành vi đó còn
gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội. Do đó hành vi của bị cáo Vũ Anh T cần
phải đư ợc xử lý nghiêm minh trước pháp luật, để giáo dục cải tạo đối với bị cáo và
phòng ngừa chung.
[3]. Xét nội dung kháng cáo bị cáo Vũ Anh T kháng cáo do bản án mà Tòa án
nhân dân thành phố Hà Nội xét xử đối với bị cáo Vũ Anh T là quá nặng và luật
sư bào chữa cho bị cáo Vũ Anh T nêu nguyên nhân phạm tội do hoàn cảnh gia
đình khó khăn, chưa được hưởng lợi đã bị bắt quả tang, trong giai đoạn điều tra
xác định bị cáo Vũ Anh T xác định bị cáo bị bệnh tâm thần phân liệt; tại giai
đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm; Tòa án nhân dân cấ p cao tại Hà Nội có quyết
định cho bị cáo Vũ Anh T đi chữa bệ nh bắt buộc, chứng tỏ bị cáo có bệnh hạn
chế về nhận thức; đề nghị tòa án xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Vũ Anh T.
Bị cáo Vũ Anh T thực hiện quyền im lặng tại phiên tòa sơ thẩm thể hiện
không hợp tác nên không thực hiện được việc tranh tụng. Tòa án cấp sơ thẩm đã
đánh giá số lượ ng ma túy vận chuyển là đặc biệt lớn, động cơ phạm tội do hoàn
cảnh khó khăn, hám lợi tiền công vận chuyển, đồng thời bản án sơ thẩm đã vận
dụng mục 3.5 của Nghị Quyết 01 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
và vận dụng chính sách nhân đạo, gia đình có công với cách mạng xét xử bị cáo Vũ
Anh T với mức hình phạt tù chung thân là đã xem xét theo hướng có lợi cho bị
cáo Vũ Anh T.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay bị cáo Vũ Anh T tiếp tục thực hiện
quyền im lặng, không khai báo, không hợp tác trong quá trình xét xử phúc thẩm;
bị cáo Vũ Anh T và luật sư bào chữa cho bị cáo cũng không bổ sung thêm tình
8
tiết giả m nhẹ nào mới theo khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do đó không có
căn cứ để xem xét kháng cáo cho bị cáo Vũ Anh T.
Từ những đánh giá nhận định nêu trên, không có căn cứ chấp nhận nội
dung đơn kháng cáo của bị cáo Vũ Anh T và quan điểm của luật sư bào chữa
cho bị cáo Vũ Anh T; Ý kiến đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân Cấp cao tại Hà
Nộ i phân tích, đánh giá là có căn cứ; cần giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.
[4]. Về án phí: Bị cáo Vũ Anh T kháng cáo không được chấp nhận phải
chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[5]. Các quyế t định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
Căn cứ vào Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự (năm 2015); Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án.
QUYẾT ĐỊNH:
1.Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vũ Anh T; Giữ nguyên quyết
định của Bản án hình sự sơ thẩm số 306/2018/HS-ST ngày 24 tháng 8 năm
2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
1.1.Tuyên bố bị cáo Vũ Anh T phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma
túy” và phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
1.2. Áp dụng: Điểm e khoản 4 Điều 194 Bộ luật Hình sự (năm 1999);
điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 55, điểm s, q khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật
Hình sự (năm 2015), xử phạt: Bị cáo Vũ Anh T tù “Chung thân” về tội “Vận
chuyển trái phép chất ma túy” và 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất
ma túy”, tổng hợp hình phạt chung là tù “Chung thân”. Thời hạn thi hành án
phạt tù tính từ ngày 30/5/2017.
2. Án phí: Bị cáo Vũ Anh T phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn đồng) án
phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bả n án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSNDCC tại Hà Nội;
- TAND Tp Hà Nội;
- Công an Tp Hà Nộ i;
- Cục THADS Tp Hà Nội;
- Bị cáo (qua TTG số 1);
- Lưu HS, PHCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
9
Hoàng Văn Hạnh
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 26/09/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 26/09/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 12/09/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Bản án số 18/2023/HS-ST ngày 24-08-2023 của TAND TP. Cần Thơ về tội vận chuyển trái phép chất ma túy
Ban hành: 24/08/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 22/08/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 22/06/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 20/06/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 19/06/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 16/06/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 13/06/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 09/06/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 30/05/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 25/05/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 22/05/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 28/04/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 25/04/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 05/04/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 21/03/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm