Bản án số 35/2024/DS-PT ngày 22/07/2024 của TAND tỉnh Quảng Bình về tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 35/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 35/2024/DS-PT ngày 22/07/2024 của TAND tỉnh Quảng Bình về tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Quảng Bình
Số hiệu: 35/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 22/07/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông Lê Văn T và bà Hồ Thị H khởi kiện tranh chấp QSD đất với bà Hoàng Thị L
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG BÌNH
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 35/2024/DS-PT
Ngày: 22 - 7 - 2024
V/v: Tranh chấp quyền sử dụng đất
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên toà: Ông Nguyễn Thái Sơn
Các Thẩm phán: Bà Từ Thị Hải Dương và ông Dương Viết Hải
- Thư phiên toà: Ông Lưu Hoàng Giang - Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Bình
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình tham gia phiên toà: Bà
Nguyễn Thị Diệu Thúy - Kiểm sát viên;
Ngày 22 tháng 7 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình, xét
xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 15/2024/TLPT-DS ngày 06 tháng 5
năm 2024 về việcTranh chấp quyền sử dụng đất”, do Bản án dân sthẩm số
04/2024/DS-ST ngày 27/3/2024 của Tán nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng
Bình bị kháng cáo, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 154/2024/QĐ-PT ngày
29 tháng 5 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 165/2024/QĐPT-DS ngày
25/6/2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Lê Văn T, sinh năm 1966 HThị H, sinh năm 1972;
cùng trú tại: tn phố P, thị trấn P, huyện B, tỉnh Quảng Bình; Ông vắng mặt,
H có mặt.
- Người đại diện theo y quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn H1, sinh
năm 1990; địa chỉ: Thị trấn P, huyện B, tỉnh Quảng Bình, ông H1 có mặt.
2. Bị đơn: Hoàng Thị L, sinh năm 1984; nơi cư trú: tổ dân phố X, thị trấn
P, huyện B, tỉnh Quảng Bình, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Ủy ban nhân dân thị trấn P, huyện B, tỉnh Quảng Bình, do ông Trần Đức B
- Chủ tịch UBND thị trấn đại diện, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
+ Ông Hoàng Thanh B1, sinh năm 1969; nơi trú: tổ dân phố P, thị trấn P,
huyện B, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt lần thứ 2 không có lý do.
2
4. Những người làm chúng:
+ Ông Trần Thế H2, sinh năm 1945; nơi trú: tổ dân phố P, thị trấn P, huyện
B, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.
+ Ông Hồ H3, sinh năm 1963; nơi trú: tổ dân phố P, thị trấn P, huyện B,
tỉnh Quảng Bình. Có mặt.
+ Ông Trần Ngọc T1, sinh năm 1952; nơi trú: tổ dân phố P, thị trấn P,
huyện B, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.
+ Bà Lê Thị L1, sinh năm 1960; nơi cư trú: tổ dân phố P, thị trấn P, huyện B,
tỉnh Quảng Bình. Có mặt.
+ Nguyễn Thị L2, sinh năm 1974; nơi trú: tdân phố P, thị trấn P,
huyện B, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.
+ Bà Phạm Thị L3, sinh năm 1973; nơi cư trú: tổ dân phố P, thị trấn P, huyện
B, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.
* Người kháng cáo: Ông Văn T, sinh năm 1966 và bà Hồ Thị H, sinh năm
1972 - Là nguyên đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn
ông Lê Văn THồ Thị H thống nhất trình bày:
Năm 2000, ông bà được chính quyền địa phương thông qua thôn P, xã S (nay
thị trấn P) giao cho thửa đất để trồng mía làm nguyên liệu phục vụ Nhà máy đường
Quảng Bình theo Nghị quyết 05 của Huyện ủy B2. Vị trí thửa đất tại cánh đồng Nấc
Thang Phúc Két nay thửa số 431, tờ bản đồ số 69, diện ch 948,4m
2
. Tứ cận cụ
thể: phía Nam giáp đường T, kích thước 30m; phía Tây đường nội đồng kích thước
34m; phía Đông giáp thửa đất s228, kích thước 18m; phía Bắc giáp kênh mương
thủy lợi đập trổ, kích thước 37,6m. Thời điểm giao đất, Nhà nước chưa thực hiện
việc đo đạc, lập bản đồ địa chính mà chỉ dựa vào thực tế người sử dụng để ghi vào
Sổ theo dõi nhận khoán ruộng đất của thôn. Quá trình sử dụng đất, do mía bị trâu
phá hoại nhiều nên Ban chỉ huy thôn thuê ông Hoàng Văn T2 làm bảo vệ và mượn
lại phần diện tích thửa đất của ông cho ông T2 làm chòi canh sinh hoạt tạm
thời. Việc Ban chỉ huy thôn ợn đất của ông để giao cho ông T2 thời điểm đó
không lập thành văn bản nhưng hiện nay ông Hồ H3 và ông Trần Thế H2 là cán bộ
Ban chỉ huy thôn thời điểm trước đã xác nhận sviệc này. m 2005, Nhà y
đường Q giải thể, diện tích đất trồng mía của các hộ chuyển sang trồng cây hoa màu
nên ông T2 trả lại đất cho ông sản xuất. Riêng phần đất làm chòi canh của ông
T2, ông đã đồng ý cho con gái ông T2 Hoàng Thị L mượn lại đtạm
L đã lập gia đình do chưa chỗ ở. Quá trình sinh sống, L đã phá chòi canh
để xây dựng ngôi nhà bằng gạch, mái lợp bro xi măng năm 2017 L được các
3
tổ chức tthiện xây dựng 01 ngôi ntình thương trên thửa đất 431. Đến năm 2013,
khi Nhà nước chủ trương thực hiện dự án đo đạc để cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất (viết tắt là GCNQSDĐ) cho người dân, do thửa đất này đang ngôi nhà
của L nên việc cấp GCNQSDĐ cho ông chưa thực hiện được. Ông khẳng
định, thửa đất số 431, tờ bản đồ số 69, diện tích 948,4 m
2
tại cánh đồng Nấc Thang
Phúc Két là của ông bà. Việc ông bà được giao đất và Ban chỉ huy thôn mượn một
phần đất của gia đình ông bà cho ông T2 sử dụng có các hộ dân xung quanh biết và
xác nhận. Vì vậy, ông bà khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết, buộc bà Hoàng Thị L
phải tháo dỡ các công trình, tài sản trên thửa đất để trả lại toàn bộ diện tích 948,4m
2
tại thửa đất số 431, tờ bản đồ số 69, thị trấn P, huyện B, tỉnh Quảng Bình
Tại các Biên bản ghi lời khai và quá trình giải quyết vụ án, bị đơn bà Hoàng
Thị L thống nhất trình bày:
Vào khoảng năm 2000, bố của ông Hoàng Văn T2 dựng chòi canh
tại thửa đất số 431, tờ bản đồ số 69 để ở làm bảo vệ khu vực ruộng trồng mía cho
thôn P, xã S (nay thị trấn P). Khi bà lập gia đình, vì hoàn cảnh khó khăn không
nhà để nên vợ chồng đến sống chung với ông T2 tại chòi canh. Sau này, ông T2
không còn làm bảo vệ nữa, vợ chồng bà vẫn sinh sống tại chòi canh này thời
điểm chính quyền địa phương thôn P, UBND xã S đã trực tiếp trao đổi với vợ chồng
sẽ cấp cho vợ chồng diện tích đất làm nhà tại khu vực tái định với điều
kiện phải nộp cho xã số tiền 35.000.000 đồng. điều kiện gia đình khó khăn
không tiền để nộp nên xã đã cho gia đình bà tiếp tục ở lại chòi canh và hỗ trợ gia
đình làm một ngôi nhà nhỏ bằng gạch, mái lợp broximang. Năm 2017, Doanh
nghiệp H6 đã xây dựng cho ngôi nhà tình thương, mái lợp tồn, khung sắt, xung
quanh thung tồn. Khi xây dựng ngôi nhà tình nghĩa có chính quyền địa phương đến
thực địa để giao diện tích đất mốc giới dựng nhà trên thửa đất. Quá trình sinh
sống, vợ chồng vẫn nộp thuế đất cho Nhà nước đối với thửa đất đang sử dụng.
Đối với yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn THồ Thị H về việc buộc vợ chồng
bà tháo dỡ các tài sản trên đất và trả lại diện tích thửa đất số 431, tờ bản đồ số 69 tại
thị trấn P không sở. vậy, bà đề nghị Tòa án không chấp nhận toàn bộ yêu
cầu khởi kiện nêu trên của ông Lê Văn T và bà Hồ Thị H.
Tại Công văn số 666/CN-VPĐK ngày 19/6/2023 của Chi nhánh Văn phòng
Đăng ký đất đai huyện B, xác nhận:
Tại Sổ mục kể đất đai quyển số 05, xã S (nay là thị trấn P), huyện B được Sở
T5 ký duyệt ngày 24/11/2015, thửa đất số 431, tờ bản đồ số 69, diện tích 948,4 m
2
,
loại đất LUC được quy chủ cho UBND xã S (nay là thị trấn P).
Tại smục đất (tạm thời) quyển số 03, S (nay là thị trấn P), huyện B,
tỉnh Quảng Bình được Sở địa chính duyệt ngày 25/12/1997, thửa đất số 431, tờ
bản đồ số 69, diện tích 948,4 m
2
, loại đất LUC bao gồm các thửa: thửa 229 (diện
tích 95,0 m
2
, loại đất MN/Hg, tên chủ sdụng đất: nhiều chủ), một phần thửa đất
4
228 (diện tích 607,0 m
2
, loại đất HgB, tên chủ sử dụng đất: nhiều chủ) và thửa 230
(diện tích 1240,0 m
2
loại đất DM, tên chủ sử dụng đất: Mệ Xuyến), tờ bản đồ số 30.
Theo quy hoạch sử dụng đất hiện nay (quy định theo Quyết định 437/QĐ-
UBND ngày 03/3/2023 về việc Phê duyệt điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm
2030 huyện B) thì thửa đất 431, tờ bản đồ số 69, diện tích 948,4 m
2
có một phần đất
thuộc quy hoạch đường giao thông (DGT), phần còn lại thuộc quy hoạch đất thương
mại dịch vụ (TMD).
- UBND thị trấn P, huyện B trình bày ý kiến đối với vụ án tại các công văn số
359/UBND ngày 17/5/2023 và công văn số 1070/UBND ngày 30/11/2023, cụ thể:
Về việc giao đất cho ông T, bà H để trồng mía nguyên liệu: Hiện nay UBND
thị trấn P không có quyết định nào liên quan đến việc giao đất cho ông Lê Văn T,
Hồ Thị H. Việc giao đất cho ông T, H để trồng mía nguyên liệu do T3 giao.
Quá trình sử dụng đất của ông T, Hiền từ khi được giao đất, ông T, H không
trực tiếp sử dụng. Hiện tại thửa đất này cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chưa ban
hành quyết định nào về việc cấp đất, thu hồi đất hay chuyển nhượng mục đích s
dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân nào.
Về quá trình quản đất đai, đăng kê khai đất đai và quy hoạch sử dụng
đất: Theo hồ sơ địa chính năm 1997 thì vị trí đất tranh chấp hiện nay thuộc thửa đất
số: 229, 230, tờ bản đồ số 30, được quy chủ thửa đất 229 cho “Nhiều chủthửa
đất số 230 quy chủ cho “Mệ Xuyến”. Theo hồ hoàn thiện sở dữ liệu đất đai
năm 2015 đo đạc thành thửa đất số 431, tờ bản đồ số 69, và được quy chủ là đất do
UBND xã (nay là thị trấn) quản lý. Theo quy hoạch sử dụng đất thì thửa đất 431, tờ
bản đồ số 69 có một phần diện tích thuộc quy hoạch đất giao thông, một phần diện
tích thuộc quy hoạch đất thương mại dịch vụ. Theo quy hoạch phân Khu đô thị du
lịch Phong Nha được UBND tỉnh phê duyệt năm 2017 thì thửa đất số 431, tờ bản đồ
số 69 một phần diện tích thuộc quy hoạch đất giao thông, một phần diện tích
thuộc quy hoạch trồng Cây xanh. Tại khu vực này không quy hoạch điểm dân cư.
Việc xây dựng nhà và các công trình trên thửa đất là không phù hợp với quy hoạch
đã được phê duyệt.
Về lịch sử biến động sử dụng đất thực tế: Vào năm 2000, thực hiện chủ trường
cấp trên, UBND S nay thị trấn P đã quy hoạch khu vực tại xứ đồng P, thuộc
thôn P, S nay tổ dân phố P, thị trấn P để trồng mía làm nguyên liệu phục vụ
cho Nhà máy đường Q. Trong những hộ được chia đất đtrồng mía hộ ông,
Văn T - Hồ Thị H được chia một số diện tích đất để trồng mía theo Sổ mục
thuộc thửa đất số: 229, 230, tờ bản đồ số 30 còn theo bản đồ địa chính phê duyệt
năm 2016 thuộc thửa đất 431, tờ bản đồ số 69 thị trấn P. Theo đơn của ông T, bà H
trình bày xác nhận của Ban chỉ huy (viết tắt BCH) thôn P thời điểm đó thì BCH
thôn có mượn một phần thửa đất trồng mía của ông TH để làm chòi bảo vệ trâu,
bò phá hoại cây mía và thuê ông Hoàng Văn T2 làm bảo vệ. Sau đó Nhà máy Đ giải
thể, ông T2 để lại cho con gái là bà Hoàng Thị L tiếp tục sinh sống trên thửa đất đó
5
tới nay. Quá trình sinh sống L đã cải tạo, tu sửa chòi canh thành nhà để sinh sống
sử dụng ổn định trên thửa đất. Từ đó cho đến trước thời điểm H, ông T tranh
chấp, UBND xã S (nay là thị trấn P) không nhận được bất kỳ ý kiến phản ánh, kiến
nghị hoặc đơn thư phản ánh, kiến nghị nào liên quan đến thửa đất mà L đang sinh
sống. Đến khoảng năm 2021, ông n T mới đơn yêu cầu hòa giải về việc phá
dỡ tài sản trên đất đối với thửa đất 431, tờ bản đồ số 69 tại thị trấn P. Về tranh chấp
quyền sử dụng đất phát sinh giữa ông T, H và L, UBND thị trấn P tiến hành
hòa giải nhiều lần nhưng không thành nên ông T, bà H khởi kiện đến Tòa án.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, ông Hoàng Thanh B1 (chồng L):
Quá trình giải quyết tại cấp thẩm, Toà án cấp thẩm đã triệu tập hợp lệ nhiều
lần nhưng ông Hoàng Thanh B1 không có mặt và không có ý kiến gì liên quan đến
vụ án.
- Những người làm chúng trình bày:
+ Ông Hồ H3ông Trần Thế H2 thống nhất xác nhận: Từ năm 2000 - 2003
các ông tham gia Ban chỉ huy thôn P, Ban chỉ huy thôn đã chia, cấp đất cho các hộ
dân trong thôn. Hộ gia đình ông Văn T Hồ Thị H được giao một phần đất
nay thửa đất số 431, tờ bản đồ số 69 diện tích gần 1.000 m
2
tại cánh đồng nấc
thang Phúc Két để trồng mía nguyên liệu phục vụ cho Nhà máy đường Q theo Nghị
quyết 05 của Huyện ủy B2 Nghị quyết của Chi bộ nhiệm kỳ 2000-2003. Sau một
thời gian triển khai trồng mía, diện tích trồng mía bị trâu bò phá hoại nhiều, được sự
chỉ đạo của UBND xã S, BCH thôn đã thuê ông Hoàng Văn T2 trú tại thôn X, xã S
đến làm bảo vệ đồng mía BCH thôn đã mượn diện tích đất của hộ ông T, bà H để
ông T2 làm chòi canh và nơi sinh hoạt tạm thời trong thời gian làm bảo vệ. Sau khi
Nhà máy đường giải thể ông T2 về quê sinh sống và để lại chòi canh cho con gái là
Hoàng Thị L sinh sống cho đến nay.
Quá trình cán bộ thôn P thực hiện chia đất, cấp đất cho các hộ gia đình trong
thôn là thực hiện dưới sự chỉ đạo bằng văn bản của Chi bộ thôn P của UBND xã
S; sau khi chia đất cho các hộ gia đình BCH thôn ghi vào Sổ theo dõi nhận khoán
ruộng đất của thôn. Các văn bản chỉ đạo sau đó đã bàn giao lại cho các cán bộ nhiều
thời kỳ nên các ông không rõ hiện các văn bản có còn lưu giữ không.
+ Ông Văn T4 ông Trần Ngọc T1 trình bày: Ông Tân nguyên Phó
thôn P giai đoạn 2003 - 2006, ông T1 nguyên là Trưởng thôn Phong Nha giai đoạn
2006 - 2011, các ông đều xác nhận hộ ông Lê Văn T và bà Hồ Thị H đã nộp đầy đủ
thuế các khoản đóng góp nghĩa vụ của ông đúng như trong sổ khoán. Trong
đó có thửa đất số 431, tờ bản đồ số 69, diện tích 1000m thuộc đồng P (Nấc thang).
+ Bà Thị L1, bà Nguyễn Thị L2, bà Phạm Thị L3 trình bày: Năm 2000,
BCH thôn phát động trồng mía cung cấp nguyên liệu cho Nhà máy đường Q. Gia
đình các bà đều được BCH giao đất gần với thửa đất giao cho gia đình ông Lê Văn
T Hồ Thị H. Sau khi các hộ dân trồng mía thì bị trâu phá hoại nhiều n
6
BCH thôn thuê ông Hoàng Văn T2 làm bảo vệ đồng mía mượn lại thửa đất của
ông T, bà H để làm chòi canh và để ông Thí sinh h.
+ Ông Nguyễn Văn H4, hiện Tổ trưởng tổ dân phố P, xác nhận: Sổ tổng
hợp diện tích đất sử dụng đất nông nghiệp các khoản giao nộp Đông Xuân năm
2004 Xóm C thôn P (nay tổ dân phố P) ông nhận lại qua các cán bộ thôn nhiệm
kỳ trước không có bìa sổ, các nội dung thể hiện tại Sổ theo dõi này không sthay
đổi, bổ sung, điều chỉnh so với trước.
- Tại Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 15/8/2023 kết quả như sau:
Thửa đất đang tranh chấp theo ranh giới, vị trí tứ cận cụ thể như sau: phía Bắc
ranh giới chạy theo mép ngoài của hàng rào cây xanh giáp mương thủy lợi; phía
Nam ranh giới chạy theo mép ngoài của hàng rào cây xanh giáp đường tỉnh lộ 562;
phía Đông ranh giới chạy theo tim hàng rào cây xanh giáp đất của Hồ Thị H; phía
Tây ranh giới chạy theo mép ngoài hàng rào cây xanh giáp đường giao thông. Tổng
diện tích 948,4 m
2
. Tài sản trên thửa đất, gồm:
+ 01 ngôi nhà cấp 4, xây bằng bloc, tô trát, không sơn, mái lợp bro, diện tích
32 m
2
;
+ 01 nhà tình thương (được xây dựng năm 2017): Có kết cấu bằng thép hộp,
xung quanh tường ốp tôn, mái lợp tôn, diện tích 37m;
+ Các cây trồng gồm: 18 cây Xoan, đường kính >25cm; 04 cây Ổi, cao >1m;
55 cây Mưng, cao >2m, đường kính < 10cm; 07 cây Mưng đường kính từ 10 cm đến
dưới 30cm; 01 cây Bưởi quả ổn định khoảng 10 năm; 02 cây Bưởi hoa, khoảng
04 năm; 03 cây Lát đường kính từ 10cm đến dưới 20cm; 06 cây Lát đường kính từ
20cm đến 40cm; 11 cây Huynh đường kính 05cm đến dưới 10cm; 07 cây Huynh
đường kính trên 10cm; 02 cây Si (sân) cao >2m, đường kính dưới 10cm; 01 cây Si
đường kính trên 30cm; 05 cây Nhãn bộ tán lá đã định hình; 04 cây Nhãn mới trồng
(cây chiết cành); 03 cây Lội đường kính 10cm đến 30cm; 01 cây Lội còn non; 05
cây H5 sữa trên 04 năm; 02 cây Chanh chưa có quảm sắp có hoa; 03 cây Mít đã
quả, đường kính dưới 30cm; 03 cây Mít đã quả, đường kính dưới 25cm; 02 cây
Keo tràm đường kính từ 25 cm trở lên; 01 cây Đa cao < 2m, đường kính dưới 10cm;
01 cây Bạch đàn đường kính từ 25 cm trở lên; 01 cây Huê đường kính từ 05 cm đến
dưới 10cm; 01 cây Huê mới trồng; 02 cây Quao đường kính 05cm đến dưới 10cm.
+ 01 giếng đào sâu 02m, không bi, không nước, thành giếng xây bằng
blốc, cao 01m.
Tài sản nằm ngoài hàng rào, do bà L1 trồng gồm 01 cây Keo tràm đường
kính trên 50cm và 03 cây Hoa sữa có đường kính trên 30cm.
- Tại Bản án dân sự thẩm số 04/2024/DS-ST ngày 27/3/2024 của Toà án
nhân dân huyện BTrạch đã quyết định: Căn cứ khoản 9 Điều 26, khoản 1 Điều 35,
khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 157, Điều 158, khoản 1, khoản 3
Điều 228, khoản 2 Điều 229 Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ Điều 24 Luật đất đai
7
năm 1993; các Điều 54, 55, 56, 59, 100, 101, 166, 203 Luật Đất đai năm 2013; Căn
cứ khoản 1 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về
mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lệ phí Tòa án; Tuyên
xử:
+ Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: ông Văn T
Hồ Thị H về việc buộc bị đơn: Hoàng Thị L tháo dỡ các tài sản trên đất trả
lại diện tích đất 948,4 m
2
thuộc thửa đất số 431, tờ bản đồ số 69 tại thôn P, thị trấn
P, huyện B, tỉnh Quảng Bình.
+ Về chi phí tố tụng: Buộc ông Văn T Hồ Thị H phải chịu các chi
phí cho việc xem xét, thẩm định tại chỗ với tổng số tiền 3.900.000 đồng (Ba triệu
chín trăm nghìn đồng). Ông Lê Văn THồ Thị H đã nộp đủ chi phí trên.
Ngoài ra bản án thẩm còn tuyên buộc nghĩa vụ chịu chi phí tố tụng, án phí
và quyền kháng cáo của đương sự theo quy định pháp luật.
- Ngày 06/4/2024, nguyên đơn ông Văn T Hồ Thị H đơn kháng
cáo với nội dung: Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết: Yêu cầuHoàng Thị
L tháo dỡ căn ntrả lại đất nông nghiệp cho ông Lê Văn T HThị H; Cho
phép ông Văn T Hồ Thị H được quyền liên hvới cơ quan nhà nước để cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Tại phiên tòa phúc thẩm: Các bên đương skhông cung cấp thêm các tài
liệu, chứng cứ mới. Nguyên đơn đề nghị Tòa án buộc bị đơn tháo dỡ toàn bộ tài
sản trên đất để trả lại toàn bộ thửa đất số 431, tờ bản đồ số 69 cho nguyên đơn,
nguyên đơn sẽ hỗ trợ cho bị đơn số tiền 30 triệu đồng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình tham gia phiên tòa phát biểu
quan điểm giải quyết vụ án:
+ Về tố tụng: Trong quá trình tiến hành tố tụng, giải quyết vụ án, người tiến hành tố
tụng, người tham gia tố tụng đã thực hiện từ khi thụ ván cho đến trước thời điểm
Hội đồng xét xử nghị án đảm bảo, đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
+ Về nội dung: Đnghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của
nguyên đơn. Áp dụng khoản 1 Điều 308 Bluật Tố tụng n sự, giữ nguyên toàn bộ
nội dung Bản án sơ thẩm và buộc đương sự chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy
định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại phiên
toà; căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội
đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của nguyên đơn đảm bảo đầy đủ về nội dung,
hình thức được làm trong thời hạn quy định tại các Điều 272, 273 Bộ luật Tố tụng
8
dân sự và đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, nên chấp nhận để xét xử theo trình
tự phúc thẩm.
[2] Xét nội dung kháng cáo của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[2.1] Về nguồn gốc, quá trình sử dụng thửa đất tranh chấp (thửa số 431, tờ bản
đồ số 69, thị trấn P): Căn cứ vào lời khai của các bên đương sự, những người làm
chứng, ý kiến của UBND thtrấn P quá trình giải quyết vụ án, Hội đng xét xử
xác định: Năm 2000, thực hiện chủ trương của UBND tỉnh Q và Nghị quyết của
Huyện ủy Bố Trạch về việc mở rộng vùng nguyên liệu mía cung cấp cho Nhà máy
đường Q, khu vực tại xứ đồng P, thuộc thôn P, S nay thôn P, thị trấn P được
quy hoạch để trồng mía. Quá trình thực hiện, UBND S đã giao về cho các thôn
để thực hiện Ban chỉ huy (BCH) thôn P đã lập Sổ theo dõi diện ch đất ruộng.
Trong những hộ được chia đất, hộ ông, Văn T - Hồ Thị H được chia một phần
diện tích đất để trồng mía thuộc thửa đất số: 229, 230, tờ bản đồ số 30 bản đồ địa
chính năm 1997 nay thuộc thửa đất 431, tờ bản đồ số 69 theo bản đồ địa chính được
Sở T5 phê duyệt năm 2015. Từ khi được chia đất, ông T, bà H chỉ trực tiếp sử dụng
đất một thời gian rất ngắn (khoảng hơn 2 tháng). Sau đó BCH thôn đã sử dụng một
phần trong diện tích thửa đất 431, tờ bản đồ số 69 để ông Hoàng Văn T2 làm chòi
bảo vcây mía. Năm 2005, khi Nhà máy đường giải thể, ông T2 về quê sinh sống
và đlại chòi canh cho con gái là Hoàng Thị L sử dụng, quá trình sử dụng L
đã tháo dỡ chòi, xây dựng nhà ở và sinh sống cho đến nay.
[2.2] Nguyên đơn ông T H cho rằng ông đã được thôn giao đất vào năm
2000 để trồng mía nguyên liệu phục vụ cho Nhà máy mía đường Q. Tuy nhiên, căn
cứ điều 24 Luật đất đai 1993, “Thẩm quyền giao đất để sử dụng vào mục đích nông
nghiệp, lâm nghiệp được quy định như sau: 1- Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương giao đất cho các tổ chức; 2- Uỷ ban nhân n huyện, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh giao đất cho các hộ gia đình nhân”. Như vậy T3 không phải
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giao đất nông nghiệp. Hơn nữa, Ủy ban nhân dân
thị trấn P cũng đã xác nhận hiện tại thửa đất đang tranh chấp chưa được quan Nhà
nước thẩm quyền nào ban hành các Quyết định liên quan đến việc cấp đất, thu
hồi đất hay chuyển mục đích sử dụng đất cho nhân, hgia đình. Theo quy định
tại Điều 36 Luật Đất đai năm 1993 quy định 2- Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
quyết định giao đất thì cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất…” và tại Điều 4
Luật Đất đai năm 2003 quy định“1. Nhà nước giao đất việc Nhà nước trao quyền
sử dụng đất bằng quyết định hành chính cho đối tượng nhu cầu sử dụng đất”.
Việc nguyên đơn được thôn chia đất để thực hiện chủ trương trồng mía nguyên liệu
phục vụ cho Nhà máy đường Q từ năm 2000 không phải căn cứ phát sinh quyền
đòi đất và được pháp luật bảo vệ theo quy định tại khoản 4 khoản 6 Điều 105 Luật
Đất đai năm 2003 và khoản 5, khoản 7 Điều 166 Luật Đất đai năm 2013.
[2.3] Từ khi được BCH thôn P chia đất để trồng mía nguyên liệu cho đến năm
2005 đến thời điểm tranh chấp, nguyên đơn ông T và H không tiến hành
9
khai, đăng ký và cũng không một trong các loại giấy tờ theo Điều 100 Luật Đất
đai năm 2013 (Điều 50 Luật Đất đai năm 2003), không thuộc trường hợp quy định
tại Điều 101 Luật Đất đai năm 2013; Sổ theo dõi diện tích đất ruộng khoán của thôn
P do nguyên đơn cung cấp, không phải một trong các Giấy tờ về quyền sử dụng
đất.
[2.4] Ngoài ra, nguyên đơn không tài sản trên thửa đất tranh chấp việc
nguyên đơn chỉ trực tiếp sử dụng đất trong khoảng thời gian rất ngắn (khoảng 2
tháng) từ lúc được chia đất vào năm 2000 đtrồng mía, sau đó không còn quản lý,
sử dụng đất trong khoảng thời gian tđó đến nay. Hơn nữa Sổ mục đất đai quyển
số 04 xã S (nay là thị trấn P), huyện B, tỉnh Quảng Bình được Sở T5 ký duyệt ngày
24/11/2015, thửa đất đang tranh chấp thuộc thửa số 431, tờ bản đồ số 69, diện tích
948,4 m
2
loại đất LUC được quy chủ cho UBND S (nay thị trấn P), ông Văn
T bà Hồ Thị H không được đăng tên người sử dụng tại thửa đất 431. Toà án
cấp thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc
Hoàng Thị L tháo dỡ toàn bộ tài sản để trả lại diện tích đất tranh chấp là có căn cứ,
đúng quy định pháp luật. Hội đồng xét xử phúc thẩm không có sở để chấp nhận
yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, cần giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm
như ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.
[2.5] Thửa đất số 431, tờ bản đồ số 69, diện tích 948,4 m
2
hiện đang do gia
đình Hoàng Thị L quản lý, sử dụng làm nhà được quy chủ theo bản đđịa
chính phê duyệt năm 2015 thuộc quyền quản lý của UBND xã S (nay là thị trấn P). Do
đó cần giao cho UBND thị trấn P quản thực hiện các quyền, nghĩa vụ theo quy
định của pháp luật về đất đai.
[3] Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Tổng chi phí xem xét, thẩm định
tại chỗ tại cấp sơ thẩm là 3.900.000 đồng do phía nguyên đơn nộp. Do yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn không được chấp nhận nên nguyên đơn phải chịu chi phí xem
xét, thẩm định tại chỗ với số tiền 3.900.000 đồng, số tiền này ông Văn T và
Hồ Thị H đã nộp đủ tại Tòa án sơ thẩm.
[4] Về án phí: Nguyên đơn ông T H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm do yêu
cầu khởi kiện không được chấp nhận; Kháng cáo không được chấp nhận nên ông T
và bà H phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
[5] Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, không bị
kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bluật Tố tụng dân sự; Tuyên xử: Không chấp nhận
kháng cáo của nguyên đơn ông Văn T và bà Hồ Thị H; Giữ nguyên Bản án dân
sự thẩm số 04/2024/DS-ST ngày 27/3/2024 của T án nhân dân huyện Bố Trạch,
tỉnh Quảng Bình.
10
Căn cứ khoản 9 Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều
147, khoản 1 Điều 157, Điều 158, khoản 1, khoản 3 Điều 228, khoản 2 Điều 229 B
luật tố tụng dân sự; Căn cứ Điều 24 Luật đất đai năm 1993; Điều 106 Luật Đất đai
năm 2003; các Điều 54, 55, 56, 59, 100, 101, 166, 203 Luật Đất đai năm 2013; Căn
cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: ông Văn T
Hồ Thị H về việc buộc bị đơn: Hoàng Thị L tháo dỡ các tài sản trên đất và trả lại
diện tích đất 948,4m
2
thuộc thửa đất số 431, tbản đồ số 69 tại thôn P, thị trấn P,
huyện B, tỉnh Quảng Bình.
2. Giao cho UBND thị trấn P, huyện B quản lý và thực hiện các quyền, nghĩa vụ
đối với thửa đất số 431, tờ bản đồ số 69 tại thôn P, thị trấn P, huyện B, tỉnh Quảng
nh theo quy định của pháp luật về đất đai.
3. Về chi phí tố tụng: Buộc Ông Lê Văn T và Hồ Thị H phải chịu các chi
phí cho việc xem xét, thẩm định tại chỗ với tổng số tiền 3.900.000 đồng (Ba triệu
chín trăm nghìn đồng). Ông Văn T và Hồ Thị H đã nộp đủ tại Tòa án sơ thẩm.
4. Về án phí: Buộc ông Lê Văn T và bà Hồ Thị H phải nộp 300.000 đồng án
phí dân sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm, nhưng được khấu trừ
vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp, theo Biên lai thu tạm ứng án phí,
lệ phí Tòa án số 31AA/2021/0002699 ngày 01/3/2023 khấu trừ vào số tiền tạm
ứng án phí phúc thẩm 300.000 đồng đã nộp theo biên lai số 0002594 ngày 09/4/2024
của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình (xác nhận ông T
và bà H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm và án phí dân sự phúc thẩm).
5. Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, không bị
kháng nghị hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc
thẩm.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (22/7/2024).
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Quảng Bình;
- Chi cục THADS huyện Bố Trạch;
- TAND huyện Bố Trạch;
- Cục THADS tỉnh Quảng Bình;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
Đã ký
Nguyễn Thái Sơn
11
Tải về
Bản án số 35/2024/DS-PT Bản án số 35/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 35/2024/DS-PT Bản án số 35/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất