Bản án số 342/2023/HS-ST ngày 10/11/2023 của TAND Q. Đống Đa, TP. Hà Nội về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 342/2023/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 342/2023/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 342/2023/HS-ST ngày 10/11/2023 của TAND Q. Đống Đa, TP. Hà Nội về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy |
---|---|
Tội danh: | 197.Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (Bộ luật hình sự năm 1999) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND Q. Đống Đa (TAND TP. Hà Nội) |
Số hiệu: | 342/2023/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 10/11/2023 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Lê Thị H phạm tội "Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý" |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN Đ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 342/2023/HS-ST NGÀY 10/11/2023 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 10 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 303/2023/TLST-HS ngày 02 tháng 10 năm 2023; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 313/2023/QĐXX-HS ngày 23/10/2023, đối với bị cáo:
Lê Thị H, sinh ngày 12/5/1984; Giới tính: nữ; Đăng ký thường trú: Xã Hùng Long, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ; Nơi ở: phường K, quận Đ, Hà Nội; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: 8/12; Con ông Lê Hữu C; Con bà Nguyễn Thị N; Chồng Nguyễn Hoàng Q; Có 01 con sinh năm 2011; Tiền án, tiền sự: Không; Lý lịch thể hiện: Ngày 18/9/2009 công an phường Phương Liên, quận Đ, Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc; Danh bản, chỉ bản số 337 ngày 21/5/2023 do Công an quận Đ lập; Bị bắt tạm giữ ngày 11/5/2023; Hiện bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 - Công an thành phố Hà Nội; Có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo: Ông Đỗ Viết H - Luật sư - Văn phòng luật sư Tâm Đức; Ông Phạm Văn H - Luật sư - Văn phòng luật sư Tâm Đức - Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; Địa chỉ: Số 62 C, quận B, Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Dương Tân Chí C, sinh năm 2001; Địa chỉ: phường Đ, quận H, thành phố Hà Nội. Vắng mặt.
2. Anh Nguyễn Trường G, sinh năm 1991; Đăng ký thường trú: xã Y, huyện P, Thái Nguyên; Địa chỉ: huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn. Vắng mặt.
3. Chị Lê Thị H, sinh năm 2001; Đăng ký thường trú: xã H, Đ, Phú Thọ; Địa chỉ: huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn. Vắng mặt.
4. Chị Nguyễn Thị Hương L, sinh năm 1986; Đăng ký thường trú: phường Q, quận T, Hà Nội; Địa chỉ: phường Yên Phụ, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội. Vắng mặt.
5. Anh Đặng Văn H, sinh năm 1992; Địa chỉ: xã Đ, huyện H, tỉnh Bắc Giang. Vắng mặt.
6. Chị Lê Thị L, sinh năm 1993; Địa chỉ: xã H, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ ngày 11/5/2023, tổ công tác của Công an phường K đã tiến hành kiểm tra hành chính tại phòng 211 C14 tập thể K, phường K, quận Đ, Hà Nội; Tổ công tác phát hiện trong nhà có 08 người, cụ thể như sau:
Tại phòng khách có Hà Thị H và Dương Tân Chí C.
Tại phòng ngủ số 01 có Nguyễn Trường G; Lê Thị H; Nguyễn Thị Hương L; Đặng Văn H.
Tại phòng ngủ số 02 có Lê Thị H và Lê Thị L.
- Tại phòng ngủ số 01, Cơ quan Công an đã phát hiện và thu giữ các vật chứng gồm:
+ Thu tại kệ gỗ: 01 túi nilon màu trắng kích thước khoảng 03x03cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng; 01 đĩa sứ màu trắng hình tròn, đường kính khoảng 20cm, bên trên đĩa có tinh thể màu trắng và 01 thẻ ngân hàng Techcombank mang tên Lê Thị H.
+ Thu tại sàn nhà: 01 ống hút tự tạo bằng tờ tiền polymer mệnh giá 10.000 đồng.
Ngoài ra, Cơ quan Công an đã thu giữ của Lê Thị H những đồ vật, tài sản gồm:
+ 01 loa JBL màu xanh, hình trụ tròn, kích thước 28x9x9cm, có dây cắm điện màu đen.
+ 01 đèn led màu trắng có in chữ TAHOTO có dây cắm màu trắng.
+ 01 điện thoại Iphone 13 ProMax màu xanh.
- Thu giữ của các đối tượng tài sản gồm: 01 điện thoại Iphone 13 ProMax màu vàng của Lê Thị L; 01 điện thoại Iphone 12 ProMax màu vàng của Lê Thị H; 01 điện thoại Iphone 12 ProMax màu xanh của Nguyễn Trường G; 01 điện thoại Samsung màu đen của Nguyễn Thị Hương L; 01 điện thoại Iphone 12 ProMax màu xanh của Đặng Văn H; 01 điện thoại 11 ProMax màu xanh của Dương Tân Chí C.
Tại bản Kết luận giám định số 3069/KL-KTHS ngày 19/5/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, kết luận:
“- Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon là ma túy loại Ketamine, khối lượng 0,014 gam.
- Tinh thể màu trắng bên trên mặt 01 đĩa sứ màu trắng là ma túy loại Ketamine, khối lượng 0,623 gam.
- 01 ống hút được cuốn bằng tờ tiền Việt Nam loại 10.000 đồng và 01 thẻ ngân hàng Techcombank đều có dính ma túy loại Ketamine”.
Tại Cơ quan điều tra, Lê Thị H cùng các đối tượng Lê Thị L, Lê Thị H, Nguyễn Trường G, Nguyễn Thị Hương L, Đặng Văn H, Dương Tân Chí C đã khai nhận số ma túy Ketamine Cơ quan Công an thu giữ là của Lê Thị H, các đồ vật dùng để sử dụng ma tuý là của Hoa mang ra cho mọi người cùng sử dụng.
Về nguồn gốc số ma tuý bị thu giữ, Lê Thị H khai: Tối ngày 07/5/2023, Lê Thị H đã liên lạc và hỏi mua 01 chỉ ma túy Ketamine của một người không quen biết qua mạng xã hội Telegram với giá 3.000.000 đồng. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, có 01 đối tượng đến khu vực chân cầu thang khu tập thể C14 K giao ma tuý cho H. Sau đó, H mang ma tuý lên phòng và chuẩn bị dụng cụ gồm đĩa, thẻ ngân hàng, ống hút từ tờ tiền 10.000 đồng để sử dụng ma túy một mình. Sau khi sử dụng xong, H đã cất giấu dụng cụ sử dụng và số ma tuý còn lại ở trong phòng ngủ.
Đến ngày 09/5/2023, Lê Thị L (là cháu ruột của H) cùng Hà Thị H (là bạn của L) đến ở nhờ nhà H. L gọi Lê Thị H (cũng là cháu ruột của H) đến chơi. Ngày 10/5/2023, H và Nguyễn Trường G (là bạn của H) đã đến nhà H. Chiều ngày 10/5/2023, H gọi Nguyễn Thị Hương L (là bạn của H) đến nhà để nói chuyện, tâm sự. Đến rạng sáng ngày 11/5/2023 thì L và bạn của L là Đặng Văn H đến nhà H.
Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 11/5/2023, khi có L, H, H, G, L, H thì H đã lấy số ma tuý và dụng cụ ma tuý đã sử dụng vào ngày 07/5/2023 ra để tiếp tục sử dụng và nói “Ai thích sử dụng thì cứ lấy sử dụng”. Sau đó, tất cả mọi người đều sử dụng ma tuý tại khu vực phòng ngủ số 1.
Đến sáng ngày 11/5/2023, L gọi Dương Tân Chí C (là cháu xã hội của H), nhờ mua nước mía mang đến. Sau khi đến, C thấy có ma tuý nên đã tự lấy để sử dụng cho bản thân.
Quá trình tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy cho các đối tượng, Lê Thị H đã bật nhạc to qua loa và sử dụng đèn Led nhấp nháy nhằm mục đích kích thích sự hưng phấn khi sử dụng ma tuý.
Đến trưa ngày 11/5/2023, cả 08 đối tượng đã bị Cơ quan công an kiểm tra, phát hiện, bắt giữ và thu giữ vật chứng như đã nêu trên.
Bản Cáo trạng số 313/CT-VKSĐĐ ngày 02 tháng 10 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân quận Đ đã truy tố bị cáo về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
Bị cáo đã khai nhận:
Tối ngày 07/5/2023, Lê Thị H đã mua 01 chỉ ma túy Ketamine của một người không quen biết qua mạng xã hội Telegram với giá 3.000.000 đồng; đến khoảng 22 giờ cùng ngày, có 01 đối tượng đến khu vực chân cầu thang khu tập thể C14 K giao ma tuý cho H. H mang ma tuý lên phòng, lấy đĩa, thẻ ngân hàng, ống hút từ tờ tiền 10.000 đồng để sử dụng ma túy một mình. Sau khi sử dụng xong, H đã cất giấu dụng cụ sử dụng và số ma tuý còn lại ở trong phòng ngủ.
Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 11/5/2023, H đã lấy số ma tuý và dụng cụ ma tuý đã sử dụng vào ngày 07/5/2023 ra để tiếp tục sử dụng và để Lê Thị L, Hà Thị H, Lê Thị H, Nguyễn Trường G, Nguyễn Thị Hương L, Đặng Văn H sử dụng; đến khoảng 8 giờ ngày 11/5/2023 Dương Tân Chí C đến, thấy có ma túy nên đã tự lấy để sử dụng; đến khoảng 12 giờ ngày 11/5/2023 thì bị công an phường K kiểm tra, phát hiện và bắt giữ cùng tang vật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Đ tại phiên toà giữ nguyên quyết định truy tố như bản cáo trạng đã nêu. Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo, đề nghị HĐXX áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt: bị cáo từ 07 năm 06 tháng tù đến 8 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”; Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo; Tịch thu tiêu hủy vật chứng là ma túy, đĩa sứ và thẻ ATM; Sung công điện thoại của bị cáo; Trả lại điện thoại cho chị Lê Thị L, chị Lê Thị H, anh Nguyễn Trường G, chị Nguyễn Thị Hương L, anh Đặng Văn H, anh Dương Tân Chí C.
Luật sư H, H: Không tranh luận về tội danh và điều luật đối với bị cáo; đề nghị HĐXX xem xét đến hoàn cảnh của bị cáo do buồn chán chuyện gia đình nên đã mua ma túy về để bản thân tự sử dụng; việc 07 người khác đến nhà bị cáo chơi, không nhằm mục đích sử dụng ma túy, về mặt ý thức bị cáo không ép buộc ai sử dụng ma túy, bị cáo không mời cụ thể từng người nhưng để mặc cho mọi người sử dụng ma túy, trọng lượng ma túy ít; Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bố bị cáo là thương binh, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn, ăn năn hối cải; bị cáo hiện nuôi con nhỏ; Đề nghị Hội đồng xét xử khoan hồng áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng và trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật.
Bị cáo không tranh luận, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Chị Lê Thị L khai: Chị là cháu của bị cáo L, chị cùng Hà Thị H đến ở nhờ nhà bị cáo L, L có gọi Lê Thị H (chị em họ của chị và là cháu của bị cáo) đến chơi, khi H đến thì có G đi cùng. Tối ngày 10/5/2023 sau khi mọi người ăn uống xong thì bị cáo vào phòng ngủ 1 mang dụng cụ sử dụng ma túy và ma túy ra, bị cáo H dùng thẻ ATM xào và sử dụng ma túy trước, sau đó để mọi người cùng sử dụng. Chị và mọi người tự sử dụng ma túy, không phải trả tiền, không phải đóng góp gì. Công an đã thu giữ của chị 01 điện thoại iphone 13 promax màu vàng gold; chị đề nghị được nhận lại điện thoại.
Căn cứ vào nội dung vụ án, các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và bị cáo. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự và không có ai khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định khởi tố, truy tố của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện được coi là hợp pháp.
[2] Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi của mình đã thực hiện như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ vật chứng, bản kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 00 giờ 30 phút đến khoảng 12 giờ ngày 11/5/2023, tại phòng 211 C14 tập thể K, phường K, quận Đ, Hà Nội; Lê Thị H đã có hành vi lấy ma túy và dụng cụ ma túy, thẻ ngân hàng mang tên Lê Thị H, ống hút từ tờ tiền 10.000 đồng để bị cáo và chị Lê Thị L, chị Lê Thị H, anh Nguyễn Trường G, chị Nguyễn Thị Hương L, anh Đặng Văn H, anh Dương Tân Chí C, chị Hà Thị H cùng sử dụng ma túy và đã bị công an phường kiểm tra, phát hiện và bắt giữ.
Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm vào tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy; tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự; Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Đ truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật trên là có cơ sở, đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân của bị cáo thấy:
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội, gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội, ảnh hưởng sức khỏe con người; ma túy là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các hành vi vi phạm pháp luật khác.
Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của ma túy, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo cố tình cung cấp trái phép chất ma túy để người khác đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể trong đó phần lớn là những người thân trong gia đình của bị cáo.
Bị cáo là người chuẩn bị sẵn ma túy, dụng cụ để sử dụng ma túy, chuẩn bị loa, đèn led để tăng hưng phấn khi sử dụng ma túy; trực tiếp xào Ketamine để mọi người cùng sử dụng; Lý lịch bị cáo thể hiện năm 2009 bị cáo bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc đến nay được coi là chưa có tiền sự; song thể hiện bị cáo là người coi thường pháp luật, không tu dưỡng rèn luyện làm gương cho con cháu lại tổ chức để các cháu ruột, bạn thân … của bị cáo sử dụng ma túy; Do đó cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với mức độ gây nguy hại cho xã hội của bị cáo để giáo dục bị cáo và để răn đe phòng ngừa chung.
Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét: Quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn, có thái độ ăn năn hối cải; bố bị cáo có công với cách mạng; để áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự giảm cho bị cáo một phần hình phạt.
Hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 255 Bộ luật hình sự.
Đối với đề nghị của người bào chữa: Nhận thấy, ngoài các tình tiết giảm nhẹ nêu trên, bị cáo không còn tình tiết giảm nhẹ nào khác, bị cáo không thuộc trường hợp được áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự, nên đề nghị của người bào chữa không có căn cứ để chấp nhận.
* Đối với người bán, giao ma túy cho bị cáo do không xác định được tên tuổi, địa chỉ, cơ quan điều tra không có căn cứ làm rõ để xử lý được.
* Đối với chị Lê Thị L, chị Lê Thị H, anh Nguyễn Trường G, chị Nguyễn Thị Hương L, anh Đặng Văn H, anh Dương Tân Chí C, chị Hà Thị H: Qua điều tra, xác định những người có tên trên không tham gia bàn bạc, không góp tiền mua ma túy và không phải trả tiền sử dụng ma túy; Các đối tượng khi rủ nhau đến nhà H không có mục đích để sử dụng ma tuý. Công an phường K đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với những người có tên trên.
[4] Vật chứng:
Số ma túy thu giữ của bị cáo là vật chứng của vụ án, thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy; Đối với đĩa sứ, 01 thẻ ATM mang tên Lê Thị H, do không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy;
Đối với 10.000 đồng; 01 loa; 01 đèn nháy cần tịch thu sung công.
Điện thoại thu giữ của bị cáo cần tịch thu sung công theo khoản 5 Điều 255 Bộ luật hình sự. Điện thoại của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan do không liên quan đến hành vi phạm tội nên được trả lại.
Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ: Điểm b khoản 2 Điều 255; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Lê Thị H phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.
Xử phạt: Bị cáo Lê Thị H 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù; Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/5/2023.
Căn cứ: Khoản 5 Điều 255, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, Điều 136, 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
- Xử lý vật chứng thể hiện tại Biên bản giao, nhận vật chứng số 20 ngày 23/10/2023:
. Tịch thu tiêu hủy: 01 đĩa sứ màu trắng và 01 thẻ ngân hàng TMCP kỹ thương Việt Nam (Techcombank); số ma túy Ketamine thu giữ trong túi nilon và trên mặt đĩa sứ màu trắng.
. Tịch thu sung công 10.000 đồng (mười nghìn đồng) (số vật chứng trên tình trạng được thể hiện gồm: 01 phong bì niêm phong dán kín có chữ ký giáp lai của đối tượng Lê Thị H, chữ ký người liên quan, chữ ký cán bộ công an phường K, người chứng kiến Nguyễn Văn B cùng hình dấu trên các mép dán; 01 đĩa sứ màu trắng được quấn dán kín niêm phong lại, tại các mép dán có chữ ký giáp lai của Lê Thị H, Nguyễn Trường G, Lê Thị H, Lê Thị L, Hà Thị H, Đặng Văn H, Nguyễn Thị Hương L, Dương Tân Chí C, chữ ký cán bộ công an phường K, người chứng kiến Nguyễn Văn B, giám định viên Vũ Việt C cùng hình dấu trên các mép dán; 01 phong bì niêm phong dán kín có chữ ký giáp lai của Lê Thị H, chữ ký người liên quan, chữ ký cán bộ công an phường K, người chứng kiến Nguyễn Văn B, giám định viên Vũ Việt C cùng hình dấu trên các mép dán).
. Tịch thu sung công: 01 loa JBL màu xanh hình trụ đã qua sử dụng; 01 đèn nháy màu trắng Tahoto đã qua sử dụng; 01 điện thoại Iphone 13 ProMax màu xanh thu giữ của Lê Thị H.
. Trả lại điện thoại Iphone 13 promax màu vàng gold có ốp ngoài màu vàng cho chị Lê Thị L.
. Trả lại điện thoại Iphone 12 promax màu vàng gold cho chị Lê Thị H.
. Trả lại điện thoại Iphone 12 promax màu xanh cho anh Nguyễn Trường G.
. Trả lại điện thoại Samsung màu đen, màn hình bị vỡ cho chị Nguyễn Thị Hương L.
. Trả lại điện thoại Iphone 12 promax màu xanh, ốp màu xanh cho anh Đặng Văn H.
. Trả lại điện thoại Iphone 11 promax màu xanh cho anh Dương Tân Chí C. Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Chị Lê Thị L có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Trường G, chị Lê Thị H, anh Đặng Văn H, chị Nguyễn Thị Hương L, anh Dương Tân Chí C có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!