Bản án số 269/2025/DS-PT ngày 02/06/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 269/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 269/2025/DS-PT ngày 02/06/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bến Tre
Số hiệu: 269/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 02/06/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chấp nhận 1 phần KC
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
Bản án số: 269/2025/DS-PT
Ngày: 02 - 6 - 2025
V/v tranh chấp chia tài sản chung,
, hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất và thừa kế tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Ông Nguyễn Chí Đức
Các Thẩm phán:
Bà Phạm Thị Thu Trang
Bà Lê Thị Thu Hương
- Thư phiên tòa: Huỳnh Triệu Anh Thư - Thư Tòa án nhân n
tỉnh Bến Tre.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa:
Nguyễn Thị Minh Phượng - Kiểm sát viên.
Ngày 02 tháng 6 năm 2025, tại trụ sTòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 476/2024/TLPT-DS ngày 06 tháng 11
năm 2024 về “Tranh chấp chia tài sản chung, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất và thừa kế tài sản”.
Do Bản án dân sự thẩm số: 161/2024/DS-ST ngày 06 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 4752/2024/QĐXXPT-
DS ngày 02 tháng 12 năm 2024, giữa:
1. Nguyên đơn:
Ông Nguyễn Tài H, sinh năm 1979;
Thường trú: Số 190B, khu phố 1, Phường 8, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến
Tre.
2
trú: Số 220D, T4, khu phố 2, phường 8, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến
Tre.
Người đại diện theo ủy quyền:
+ Ông Nguyễn Tài N, sinh năm 1957 (có mặt);
Cư trú: Số D, khu phố E, phường P, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
+ Ông Phạm Quốc V, sinh năm 1988 (có mặt);
Cư trú: ấp A, xã B, huyện M, tỉnh Bến Tre.
2. Bị đơn:
Ông Nguyễn Tài H1, sinh năm 1959;
Thường trú: Số 190B, khu phố 1, phường 8, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến
Tre.
Cư trú: Số 593, ấp Chợ, xã Mỹ Thạnh, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo ủy quyền:
Ông Nguyễn Trung N1, sinh năm 1969 (có mặt);
trú: Số A, L, phường A, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1954;
Cư trú: Số A ấp H, xã H, huyện C, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo ủy quyền:
Ông Nguyễn Sinh T1, sinh năm 1964 (có mặt);
Cư trú: Số D, khu phố C, phường P, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
3.2. Ông Nguyễn Tài N, sinh năm 1957 (có mặt);
Cư trú: Số D, khu phố E, phường P, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp:
Luật Tấn D Văn phòng luật sư Tấn D thuộc Đoàn luật tỉnh B
(có mặt);
Địa chỉ: Số A, T, phường F, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
3.3. Ông Nguyễn Tài T2, sinh năm 1961;
3
Thường trú: Số 190B, khu phố 1, phường 8, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến
Tre.
trú: Số 54, Nguyễn Ngọc L, Phường A, quận A, Thành phố Hồ Chí
Minh.
Người đại diện theo ủy quyền:
Ông Nguyễn Sinh T1, sinh năm 1964 (có mặt);
Cư trú: Số D, khu phố C, phường P, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
3.4. Ông Nguyễn Sinh T1, sinh năm 1964 (có mặt);
Cư trú: Số D, khu phố C, phường P, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo ủy quyền:
Ông Phạm Quốc V, sinh năm 1988 (có mặt);
Cư trú: ấp A, xã B, huyện M, tỉnh Bến Tre.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp:
Luật sư Lê Tấn D Văn phòng luật sư Lê Tấn D thuộc Đoàn luật sư tỉnh B.
3.5. Bà Nguyễn Thị Phương D1, sinh năm 1966 (vắng mặt);
Cư trú: ấp C, xã M, huyện G, tỉnh Bến Tre.
3.6. Bà Nguyễn Thị Kiều N2, sinh năm 1968 (vắng mặt);
Cư trú: Số A, đường H, phường P, thành phố T, thành phố Hồ Chí Minh.
3.7. Ông Nguyễn Tài N3, sinh năm 1971 (có mặt);
Thường trú: 190B1 khu phố 1, phường 8, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre.
Cư trú: Số 304B2, Tổ 10, khu phố 2, Phường 5, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến
Tre.
3.8. Bà Nguyễn Thị Phương K, sinh năm 1972 (vắng mặt);
Cư trú: Số B, Cư xá Đ, phường T, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
3.9. Bà Nguyễn Thị Hồng T3, sinh năm 1974;
Thường trú: Số 190B, khu phố 1, phường 8, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến
Tre.
trú: Số 42, đường số 4, Tổ 3, khu phố 5, phường Tường Thọ, thành phố
Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.
4
Người đại diện theo ủy quyền:
Ông Nguyễn Sinh T1, sinh năm 1964 (có mặt);
Cư trú: Số D, khu phố C, phường P, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
3.10. Bà Nguyễn Thị Hồng T4, sinh năm 1977 (vắng mặt);
Cư trú: Số B L, phường D, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.
3.11. Bà Nguyễn Thị H2, sinh năm 1960;
Cư trú: Số E ấp C, xã M, huyện G, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo uỷ quyền:
Ông Nguyễn Trung N1, sinh năm 1969 (có mặt);
Cư trú: Số A, L, phường A, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
4. Người kháng cáo: Ông Nguyễn Tài H, Nguyễn Thị Hồng T3, ông
Nguyễn Tài N3, ông Nguyễn Sinh T1, ông Nguyễn Tài T2, ông Nguyễn Tài N,
ông Nguyễn Thanh T5.
* Người làm chứng do nguyên đơn triệu tập:
Ông Phạm Văn M, sinh năm 1947;
Địa chỉ: Số B, khu phố A, Phường H, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung bản án sơ thẩm,
Theo đơn khởi kiện ngày 19/5/2022, đơn khởi kiện sửa đổi, bổ sung ngày
20/8/2024 cùng các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án, nguyên đơn ông
Nguyễn Tài H trình bày:
Cha đông H ông Nguyễn Văn M1 (sinh năm 1931 - chết năm 2013), mẹ
đẻ ông H là bà Thị B (sinh năm 1935 - chết năm 2022). Ông M1 và bà B sống
chung với nhau t trước năm 1954, đăng kết hôn hay không tông H
không rõ. Ông M1 B tổng cộng 12 người con chung, cụ thể: Nguyễn
Văn T, Nguyễn Tài N, Nguyễn Tài H1, Nguyễn Tài T2, Nguyễn Sinh T1, Nguyễn
Thị Phương D1, Nguyễn Thị Kiều N2, Nguyễn Tài N3, Nguyễn Thị Phương K,
Nguyễn Thị Hồng T3, Nguyễn Thị Hồng T4 và Nguyễn Tài H. Cha đẻ B cụ
ông Văn C (sinh năm 1900 - chết năm 1942), mẹ đẻ B cụ Trịnh Thị
M2 (sinh năm 1905 - chết năm 1999), cha đẻ của ông M1 ông Nguyễn Văn P
5
(sinh năm 1906 - chết năm 1963), mẹ đẻ ông M1 cụ Nguyễn Thị R (sinh
năm 1911- chết năm 1982). Ông H cam đoan lời trình bày nêu trên là sự thật.
Thửa đất 47, tờ bản đồ số 12, diện tích 197,6m
2
tại phường H, thành phố B,
tỉnh Bến Tre được tách ra từ thửa đất 21, tờ bản đồ số 12, diện tích 500m
2
toạ
lạc tại phường H, thành phố B, tỉnh Bến Tre. Trước đây, thửa đất 21 là của
X, sau đó ông Nguyễn Tài N cho B 05 chỉ vàng để nhận chuyển nhượng đất
của X diện tích 500m
2
thửa đất nêu trên, thời điểm nhận chuyển nhượng
đất vào khoảng năm 1979 - 1980. Khi ông N đưa vàng cho B thì các bên
không có làm giấy tờ.
Ngày 15/9/2003, hộ bà Nguyễn Thị B1 được y ban nhân dân (viết tắt
UBND) thị B cấp quyền sử dụng đất thửa 21, tờ bản đồ số 12, diện tích 500m
2
(trong đó 100m
2
thổ cư, 400m
2
đất vườn). Ông H khẳng định thửa đất 21, tờ
bản đồ số 12 cũng như thửa đất 47, tờ bản đsố 12 cũng tài sản chung của hộ
gia đình gồm 10 người gồm: Thị B (chủ hộ), ông Nguyễn Văn M1 (chồng
chủ hộ), ông Nguyễn Tài H1 (con ruột), ông Nguyễn Tài T2 (con ruột),
Nguyễn Thị Phương D1 (con ruột), bà Nguyễn Thị Kiều N2 (con ruột), ông
Nguyễn Tài N3 (con ruột), Nguyễn Thị Phương K (con ruột), Nguyễn Thị
Hồng T3 (con ruột), Nguyễn Tài H (con ruột), theo Văn bản số 341/CATP ngày
12/6/2023 của Công an thành phố B (BL231). Các thành viên n lại trong hộ
gồm Huỳnh Thanh N4, sinh năm 1989 (cháu ngoại); Huỳnh Thanh H3, sinh năm
1965 (con rể); Nguyễn Đức T6, sinh năm 1992 (cháu nội); Nguyễn Thị Phương
M3, sinh năm 1997 (cháu ngoại); Phan Thị Mỹ D2, sinh năm 2000 (cháu ngoại)
Nguyễn Hoàng P1, sinh năm 2001 (cháu ngoại) hoàn toàn không liên quan đến
đến việc hình thành đối với tài sản quyền sử dụng đất thuộc thửa đất 21 cũng
như thửa đất 47, tờ bản đồ số 12 và họ cũng không có công sức đóng góp gì.
Đến năm 2004, B ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà
Nguyễn Thị Ánh H4 diện tích đất 123,4m
2
được tách ra từ thửa đất 21 (nay
thửa đất 45 tờ bản đồ số 12), các bên thoả thuận giá chuyển nhượng 500.000
đồng/m
2
, số tiền chuyển nhượng 66.000.000 đồng, thửa đất 21 còn lại có diện tích
376,6m
2
do hộ Thị B tiếp tục đứng tên quyền sử dụng đất. Năm 2004,
khi chuyển nhượng đất cho H4 thì chỉ ông M1 B vào hợp đồng
chuyển nhượng cho H4, các anh em trong gia đình đều biết, đồng ý không
ý kiến. B chuyển nhượng đất cho H4 để trả nD1, K với tổng số
tiền 60.000.000 đồng cho ông H 6.000.000 đồng để đóng phạt cho việc đi
nghĩa vụ quân sự của ông H. Đối với việc B đã chuyển nhượng đất cho H4
6
thì nguyên đơn người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu độc lập
không tranh chấp, không đề nghị Toà án xem xét.
Ngày 19/5/2005, B tiếp tục ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất cho ông Nguyễn T Học phần đất diện tích 197,6m
2
được tách ra từ thửa đất 21
(nay thửa 47 tờ bản đồ số 12), hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
được UBND phường H7, sau đó ông H1 được cấp quyền sử dụng đất vào năm
2005. Phần diện tích còn lại của thửa đất 21 là 179,9 m
2
hiện do hộ bà B đứng tên
quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của thửa đất này do ông N
đang giữ. Khi B chuyển nhượng cho ông Học phần đất diện tích 197,6 m
2
thì
các anh em trong gia đình hoàn toàn không biết. Đến năm 2019, UBND phường
H7, thành phố B chủ trì công khai phương án bồi thường cho dự án Hạ tầng thiết
yếu ổn định đời sống dân phường H P, thành phố B - giai đoạn 1 (lúc
này B đang ở Thành phố Hồ Chí Minh), ông Nguyễn Tài N3 thay mặt B đi
dự họp thì lúc này anh em trong gia đình mới phát hiện bà B đã chuyển nhượng
cho ông H1 diện tích đất 197,6m
2
thuộc một phần thửa đất 21. Sau đó, ông N
liên hệ ông Học hỏi rằng khi nhận chuyển nhượng đất của của mẹ (bà Thị B)
thì trả tiền chưa, ông H1 nói rằng trả tiền nhưng chưa trả hết (việc trao đổi
giữa ông N ông H1 không làm giấy tờ). Theo ông H được biết, ông H1 chỉ
trả cho B s tiền khoảng 30.000.000 đồng, còn nợ mẹ (bà B) số tiền
70.000.000 đồng chưa trả. Thửa đất 47 tờ bản đồ số 12 hiện trạng đất trống,
không có nhà hay nhà tạm. Trên đất chuồng gà do ông Tư N5 (hàng xóm)
vào nuôi chứ ông H1 không quản lý, sdụng đất. Đến nay, thửa đất 47 đã
bị thu hồi toàn bộ để thực hiện dự án htầng thiết yếu ổn định đời sống dân
phường H P. Giai đoạn 1 của dự án, ông H1 đã nhận số tiền 40.103.000
đồng, giai đoạn 2 của dự án ông H1 chưa nhận với số tiền là 1.009.917.000 đồng,
tổng số tiền 1.050.020.000 đồng. Xét thấy, thửa đất 47 là tài sản chung của hộ gia
đình, B tự ý hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông H1
không đúng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông H.
Do đó, ông H có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 19/5/2005 giữa
Thị B ông Nguyễn Tài H1 đối với thửa 47, tờ bản đsố 12 với do hợp
đồng chuyển nhượng này thiếu các thành viên trong hộ nên hợp đồng hiệu
về chủ thể. Ngoài ra, không còn lý do nào khác.
- Thửa đất 47 tài sản chung của hộ, cha mẹ của ông H là ông M1, B đã
chết, như vậy trong stiền bồi thường của thửa đất 1.050.020.000 đồng thì
trong đó phần tiền là di sản ông M1, bà B để lại [(1.050.020.000 đồng : 10)
7
x 2] = 210.004.000 đồng. Theo quy định, lẽ ra 10 thành viên trong hộ mỗi người
được nhận số tiền 105.002.000 đồng mỗi người thuộc thuộc hàng thừa kế
thứ nhất của ông M1, bà B sẽ được nhận số tiền 210.004.000 đồng : 12 =
17.500.000 đồng, tuy nhiên do đây tài sản chung của gia đình, tình nghĩa anh
em, ông H đề nghị lấy tổng số tiền bồi thường 1.050.020.000 đồng chia đều
cho 12 người con, mỗi người được nhận số tiền là 87.501.666 đồng. Như vậy,
ông H yêu cầu được nhận số tiền 87.501.666 đồng. Ông H không còn yêu cầu nào
khác.
Theo bản tự khai, biên bản lấy lời khai, cùng các tài liệu chứng cứ
trong hồ sơ vụ án, bị đơn ông Nguyễn Tài H1 trình bày:
Ngày 19/5/2005, ông và vợ ông là bà Nguyễn Thị H2 nhận chuyển
nhượng đất của mẹ ông (bà Thị B) thửa đất 47, tờ bản đồ số 12, diện tích
197,6m
2
tại phường H, thành phố B, tỉnh Bến Tre. Các bên thoả thuận giá chuyển
nhượng 110.000.000 đồng. Sau đó, ông H1 được quan thẩm quyền cấp
quyền sử dụng đất thửa đất này vào ngày 24/6/2005. Hiện trạng thửa đất 47 lúc
ông nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đất trống, chỉ một số cây trồng
chuối, mít. Ông ý định cất nhà trên thửa đất này, tuy nhiên khi liên hệ
quan nhà nước thẩm quyền thì ông được biết thửa đất 47 bị quy hoạch nên
không được phép cất nhà. Quá trình sử dụng đất, ông cho ông Phạm Văn M,
tên gọi khác T (hàng xóm) để cất chuồng nuôi trên đất từ năm 2009 đến
nay đồng thời trông nom đất cho ông. Đến năm 2019, Nhà nước thu hồi một phần
thửa đất 47 với diện ch 22 m
2
để làm dự án htầng thiết yếu ổn định đời sống
dân phường H P (giai đoạn 1), ông được bồi thường với số tiền
40.103.000 đồng, phần đất còn lại của thửa đất 47, diện tích 175,7 m
2
ông được
cấp quyền sử dụng đất vào ngày 08/5/2020. Đến năm 2021 Nhà nước tiếp tục thu
hồi toàn bộ đất 175,7 m
2
để làm dự án nêu trên giai đoạn 2. Đến ngày 12/12/2022
nhà nước ban hành Thông báo thu hồi số 6893/TB-TA đối với ông, Nhà nước
công bố giá bồi thường giai đoạn 2 là 1.009.917.000 đồng.
Năm 2005, khi mẹ ông (bà B) chuyển nhượng cho ông thửa đất 47 thì trong
gia đình các anh em biết. Do trước đây B đã chuyển nhượng cho Nguyễn
Thị Ánh H4 nên thủ tục chuyển nhượng thửa đất 47 do B làm. Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa đất 47 được chứng thực tại UBND
phường H7. Theo ông, thửa đất 47 là tài sản của bà B nên bà B ký chuyển nhượng
đất cho ông đúng. Ông không đồng ý lời trình bày của nguyên đơn cũng như
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập cho rằng đây là tài sản
chung của hộ gia đình gồm 10 người. Ông hoàn toàn không biết việc ông N đưa
8
cho mẹ ông (bà B) 05 chỉ vàng để nhận chuyển nhượng thửa đất 21, tờ bản đồ số
12. Sau khi hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 19/5/2005, ông đã
chuyển đủ tiền chuyển nhượng cho B 110.000.000 đồng, ông giao tiền mặt
cho B. Mẹ ông (bà B) chuyển nhượng thửa đất 47 để trả nợ cho các người con
cụ thể trả nợ cho K, D1, ông H ông N3. Sau khi nhận chuyển nhượng
đất, ông đi tới đi lui để trông coi đất đồng thời ông thế chấp thửa đất 47 để
vay vốn ngân hàng nhiều lần. Đối với việc ông H trình bày cho rằng ông chỉ trả
cho B số tiền chuyển nhượng 30.000.000 đồng còn nợ lại B số tiền
70.000.000 đồng là không đúng, không có cơ sở.
Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu độc lập của người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông ý kiến như sau: Ông không đồng ý toàn bộ
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan. Ông không yêu cầu nào khác.
Theo bản tkhai, đơn yêu cầu độc lập, người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan gồm ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Tài N, ông Nguyễn Tài T2, ông
Nguyễn Sinh T1, ông Nguyễn Tài N3 và bà Nguyễn Thị Hồng T3 trình bày:
Ông T, ông N, ông T2, ông T1, ông N3 và bà T3 thống nhất lời trình bày của
ông H về nguồn gốc thửa đất 21, 47, tờ bản đồ số 12 tại phường H, thành phố B,
tỉnh Bến Tre. Các ông bà khẳng định thửa đất 47, tờ bản đồ số 12 là tài sản chung
của hộ gia đình, do đó Thị B tự ý hợp đồng chuyển nhượng quyền s
dụng thửa đất 47 cho ông H1 không đúng, làm ảnh hưởng đến quyền lợi, lợi
ích hợp pháp của các ông bà. Nay, các ông bà có yêu cầu độc lập cụ thể như sau:
- Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 19/5/2005 giữa
Thị B ông Nguyễn Tài H1 đối với thửa 47, tờ bản đsố 12 với do hợp
đồng chuyển nhượng này thiếu các thành viên trong hộ nên hợp đồng hiệu
về chủ thế. Ngoài ra, không còn lý do nào khác.
- Ông T, ông N, ông T2, ông T1, ông N3 T3 yêu cầu chia tài sản
chung, chia thừa kế, mỗi người yêu cầu được nhận số tiền 87.501.666 đồng trong
số tiền 1.050.020.000 đồng mà ông H1 được nhận bồi thường.
Các ông bà không còn yêu cầu nào khác.
Theo văn bản trình bày ý kiến các tài liệu chứng cứ trong hồ vụ
án, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Phương D1,
Nguyễn Thị Kiều N2, Nguyễn Thị Phương K Nguyễn Thị Hồng T4
trình bày:
9
D1, N2, K T4 thống nhất toàn bộ lời trình bày của của ông
Nguyễn Tài H1. Thửa đất 47, tờ bản đồ số 12, diện tích 197,6m
2
được tách ra từ
thửa 21, tờ bản đồ số 12 do hNguyễn Thị B1 đứng tên quyền sử dụng đất.
Nguồn gốc thửa đất 21 do B1 nhận chuyển nhượng của X. Ngày
15/9/2003 B1 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2004 bà B1
chuyển nhượng một phần thửa đất 21 (nay là thửa đất 45, tờ bản đồ 12) cho
Nguyễn Thị Ánh H4 để trả nợ cho K, D1, ông H và ông N3.
Đến năm 2005 B1 chuyển nhượng tiếp một phần của thửa đất 21 cho ông
Nguyễn Tài H1 (nay thửa đất 47 diện tích 197,6m
2
), khi B1 chuyển nhượng
đất cho ông H1 thì mọi người trong gia đình đều biết, đồng ý không ai ý
kiến gì. Sau khi chuyển nhượng đất cho ông H1, bà B1 lấy số tiền chuyển nhượng
đất cho các người con trong nhà để vốn làm ăn sinh sống, trong đó một
phần cho H đóng tiền phạt trốn nghĩa vụ quân sự, một phần trả nợ cho N3 lúc đó
đang làm việc tại UBND phường H7 vì ham chơi, mượn nợ khắp nơi nên người ta
thưa tới UBND phường 8 đòi nợ. Mặc dù trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cấp cho hộ bà Thị B nhưng thực tế đây phần tài sản của B chkhông
phải là tài sản chung của hộ gia đình. D1, N2, K T4 khẳng định
không công sức đóng góp để tạo lập nên thửa đất 21 cũng như thửa đất 47,
tờ bản đồ số 12 tại phường H, thành phố B. Các không yêu cầu trong vụ
án này và đề nghị Toà án giải quyết vắng mặt.
Theo bản tự khai cùng các tài liệu, chứng cứ cung cấp cho Tòa án, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị H2 trình bày:
Trước đây, bà và ông Nguyễn Tài H1 là vợ chồng. Vào năm 2008, bà và ông
H1 đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn số: 43/2008/QĐST-
HN ngày 28/02/2008 của Toà án nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre. Khi
ông H1 nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa đất 47, tờ bản đồ số 12 tại
phường H, thành phố B, tỉnh Bến Tre thì biết mọi người trong gia đình
B đều biết, đồng ý không có tranh chấp. Mục đích B chuyển nhượng đất
cho ông H1 nhằm tiền phục vụ sinh hoạt trong gia đình cũng như trả ncho
các người con. không đồng ý toàn bộ lời trình bày của nguyên đơn người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu độc lập. Đề nghị Toà án không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không chấp nhận yêu cầu độc lập của
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Bà không có yêu cầu gì trong vụ án này.
Tại phiên tòa sơ thẩm:
Phía nguyên đơn ông Nguyễn Tài H trình bày:
10
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 19/5/2005 vô hiệu vì thửa
đất 47 là tài sản chung của hộ gia đình 10 người gồm B, ông M1, ông H1, ông
T2, D1, N2, ông N3, K, T3 và ông H; khi thực hiện chuyển nhượng
quyền sử dụng đất là tài sản chung của hộ gia đình thì phải được sự đồng ý của 10
thành viên trong hộ, tuy nhiên hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất ngày
19/5/2005 chỉ B ký, 09 người còn lại quan hệ huyết thống với B
không tên vào hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thiếu sót.
Hơn nữa, thửa đất 47 hình thành trong thời kỳ hôn nhân giữa bà B và ông M1, tại
thời điểm chuyển nhượng đất cho ông H1 thì ông M1 còn sống. Theo quy định
của Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Đất đai thì việc định đoạt tài sản chung phải
được sự bàn bạc, thoả thuận của vợ chồng, việc B một mình định đoạt tài sản
chung trái quy định. Bên cạnh đó, ông H1 cho rằng đã nhận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất của B, tuy nhiên tại Biên bản hoà giải ngày 22/8/2024 ông
H1 trình bày không có tài liệu, chứng cứ chứng minh ông đã giao đủ tiền chuyển
nhượng quyền sử dụng đất cho B. Từ các phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét
xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cụ thể: Hủy hợp đồng
chuyển nhượng quyền sdụng đất ngày 19/5/2005; ông H đề nghị được chia số
tiền tiền 87.501.666 đồng. Ông H không còn yêu cầu nào khác.
Ông Nguyễn Tài H1, Nguyễn Thị H2 cũng như ông Nguyễn Trung N1
người đại diện theo ủy quyền trình bày:
Nguồn gốc thửa đất 21, tờ bản đsố 12 tại phường H là do Thị B
nhận chuyển nhượng của Văn N6. Việc chuyển nhượng quyền sdụng đất
giữa bà B và bà Văn N6 là giữa cá nhân với cá nhân, sở dĩ vào năm 2003 cơ quan
thẩm quyền cấp quyền sử dụng đất thửa đất 21 cho hộ gia đình Thị B
do phôi mẫu của Nhà nước. Hộ gia đình được cấp quyền sử dụng đất theo quy
định pháp luật phải các thành viên trong hộ gia đình cùng nhận chuyển quyền
sử dụng đất hoặc được Nhà nước cấp đất theo định suất. Nguyên đơn, người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu độc lập cho rằng thửa đất 21, 47 tài
sản chung của hộ, tuy nhiên không đưa ra được bất kỳ tài liệu nào chứng minh
công sức đóng góp tạo thành tài sản của hộ đối với thửa đất 21, 47 ngoài việc căn
cứ theo mẫu giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó, nguyên đơn và người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu độc lập cho rằng thửa đất 47 tài sản
chung của hkhông căn cứ. Đồng thời, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất ngày 19/5/2005 được lập thành văn bản được chứng thực của UBND
phường H7, khi chuyển nhượng thửa đất 47 thì tất cả các thành viên trong gia
đình đều biết và không ý kiến. Ngoài ra, đề nghị Hội đồng xét xử lưu tâm
11
trước đó B cũng đã chuyển nhượng một phần thửa đất 21 cho Nguyễn
Thị Ánh H4, tại phiên toà hôm nay nguyên đơn người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan có yêu cầu độc lập trình bày đều biết việc chuyển nhượng này, họ đồng
ý và sự đồng ý này của họ cũng không thể hiện bằng văn bản.
Từ các phân tích trên, thấy rằng khi B chuyển nhượng thửa đất 47 cho
ông H1 thì ông M1 và các người con chung của ông M1, B đều biết, hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 19/5/2005 được chứng thực theo quy
định pháp luật, do đó hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
19/5/2005 hợp pháp. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn yêu cầu độc lập của người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan. Ông H1 không còn yêu cầu nào khác.
Ông Nguyễn Tài N3 trình bày: Năm 2004, khi bà B chuyển nhượng thửa đất
45, tờ bản đồ số 12, tại phường H cho Nguyễn Thị Ánh H4 thì ông biết,
đồng ý không ý kiến. Tuy nhiên, thời điểm năm 2005 khi B chuyển
nhượng thửa đất 47, tờ bản đồ số 12, tại phường H cho ông H1 thì ông hoàn toàn
không biết, mặc thời điểm năm 2005 thì ông làm việc tại UBND phường H7,
thành phố B (ông giữ chức vụ Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân phường), tuy
nhiên ông không làm bên địa chính nên ông không nắm được việc chuyển
nhượng đất giữa B ông H1. Năm 2009, khi UBND phường H7 lập danh
sách thống kê quyền sử dụng đất để thực hiện dự án Hạ tầng thiết yếu ổn định đời
sống dân phường H xã P (giai đoạn 1) thì ông được biết B đã chuyển
nhượng đất cho ông Học phần diện tích 197,6m
2
và ông được biết ông H1 chỉ mới
giao cho B số tiền chuyển nhượng 30.000.000 đồng còn nợ lại B số tiền
70.000.000 đồng. Lúc này, ông đề nghị ông H1 tiếp tục trả số tiền 70.000.000
đồng còn lại thì ông H1 nói rằng “ai 30.000.000 đồng đưa ông H1 thì ông H1
sẽ trả sổ đỏ lại”. Khi ông N3 gom đủ tiền thì ông H1 không đồng ý trả giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất và ông được biết sau đó ông H1 đã đem giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất thế chấp thửa đất 47 tại Ngân hàng TMCP K1 Chi nhánh B2.
Đến năm 2021, 2022, thửa đất 47 không còn thế chấp ngân hàng. Do đó, nay các
anh em ông mới có đơn khởi kiện gửi đến Toà án. Việc bà D1, N2, bà K và bà
T4 cho rằng B chuyển nhượng đất để trả nợ cho ông không đúng sự thật.
Ông N3 đề nghị Toà án giải quyết: hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất ngày 19/5/2005; ông yêu cầu được chia tài sản chung, chia thừa kế, ông yêu
cầu được nhận số tiền 87.501.666 đồng trong số tiền 1.050.020.000 đồng ông
H1 được nhận bồi thường đối với thửa đất 47. Ông không còn yêu cầu nào khác.
12
Ông Nguyễn Tài N, ông Nguyễn Tài T2, ông Nguyễn Sinh T1, bà Nguyễn
Thị Hồng T3 trình bày:
Ông T, ông N, ông T2, ông T1, T3 giữ nguyên yêu cầu độc lập. Các ông
bà không còn yêu cầu nào khác.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 161/2024/DS-ST ngày 06 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre đã tuyên:
Căn cứ Điều 15 Luật Hôn nhân gia đình năm 1959; Khoản 1 Điều 27
Luật Hôn nhân gia đình 2000; Điều 131, Điều 690, Điều 695 Bộ luật Dân sự
năm 1995; Điều 106, 127 Luật Đất đai năm 2003; Án lệ số 04/2016/AL được Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06/4/2016 được
công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06/4/2016 của Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao; Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39,
Điều 147, Điều 227, Điều 228 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 12, Điều
26, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội. Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Tài H,
cụ thể như sau:
- Không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Tài H về việc tuyên hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 19/5/2005 giữa Thị B ông
Nguyễn Tài H1 đối với thửa đất 47, tờ bản đồ số 12, diện tích 197,6m
2
tại phường
H, thành phố B, tỉnh Bến Tre vô hiệu.
- Không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Tài H về việc yêu cầu được
nhận số tiền 87.501.666 (tám mươi bảy triệu năm trăm linh một nghìn sáu trăm
sáu mươi sáu) đồng.
2. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Tài N, ông Nguyễn Tài T2, ông Nguyễn
Sinh T1, ông Nguyễn Tài N3 và bà Nguyễn Thị Hồng T3, cụ thể như sau:
- Không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Tài N, ông
Nguyễn Tài T2, ông Nguyễn Sinh T1, ông Nguyễn Tài N3 Nguyễn Thị
Hồng T3 về việc tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
19/5/2005 giữa Võ Thị B và ông Nguyễn Tài H1 đối với thửa đất 47 tờ bản đồ
số 12 diện tích 197,6 m
2
tại phường H, thành phố B, tỉnh Bến Tre vô hiệu.
- Không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Tài N, ông
Nguyễn Tài T2, ông Nguyễn Sinh T1, ông Nguyễn Tài N3 Nguyễn Thị
13
Hồng T3 về việc yêu cầu mỗi người được nhận số tiền 87.501.666 (tám mươi bảy
triệu năm trăm linh một nghìn sáu trăm sáu mươi sáu) đồng.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng cáo của
các đương sự.
Ngày 18/9/2024, ông Nguyễn Tài H, Nguyễn Thị Hồng T3, ông Nguyễn
Tài N3, ông Nguyễn Sinh T1, ông Nguyễn Tài T2, ông Nguyễn Tài N, ông
Nguyễn Thanh T5 kháng cáo bản án sơ thẩm, yêu cầu cấp phúc thẩm sửa một
phần Bản án thẩm theo hướng tuyên hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất ngày 19/5/2005 đối với thửa đất số 47, tờ bản đồ số 12, diện tích
197,6 m
2
tại phường H, thành phố B giữa bà Thị B ông Nguyễn Tài H1;
Chia tài sản quyền sử dụng đất đối với thửa đất nêu trên cho mỗi người
87.051.666 đồng trong tổng số tiền 1.050.020.000 đồng (là số tiền bồ thường cho
Nguyễn Tài H1 trong dự án hạ tầng thiết yếu ổn định đời sống dân phường H
và xã P, thành phố B giai đoạn 1 và 2).
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Nguyễn Tài H, Nguyễn Thị Hồng T3, ông
Nguyễn Tài N3, ông Nguyễn Sinh T1, ông Nguyễn Tài T2, ông Nguyễn Tài N,
ông Nguyễn Thanh T5 giữ nguyên nội dung kháng cáo, bị đơn không đồng ý
kháng cáo của nguyên đơn, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Quan điểm của luật bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho phía nguyên
đơn đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn.
Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre:
V t tụng: Những người tiến hành tố tụng đã tuân thủ đúng quy định của
Bộ luật Tố tụng dân sự, những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các
quyền và nghĩa vụ được quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 308, Điều 309
của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, chấp nhận một phần kháng cáo của ông
Nguyễn Tài H, Nguyễn Thị Hồng T3, ông Nguyễn Tài N3, ông Nguyễn Sinh
T1, ông Nguyễn Tài T2, ông Nguyễn Tài N, ông Nguyễn Thanh T5, chia phần di
sản của cụ M1 để lại cho 12 người con mỗi người được nhận số tiền
43.750.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra
tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng của các bên đương sự, xét kháng cáo
14
của ông Nguyễn Tài H, bà Nguyễn Thị Hồng T3, ông Nguyễn Tài N3, ông Nguyễn
Sinh T1, ông Nguyễn Tài T2, ông Nguyễn Tài N, ông Nguyễn Thanh T5 đề
nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre; Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] V t tng:
Ông Nguyễn Tài H, bà Nguyễn Thị Hồng T3, ông Nguyễn Tài N3, ông
Nguyễn Sinh T1, ông Nguyễn Tài T2, ông Nguyễn Tài N, ông Nguyễn Thanh T5
kháng cáo và thực hiện các thủ tục kháng cáo hợp lệ, trong thời hạn luật định nên
được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Phương D1,
Nguyễn Thị Kiều N2, Nguyễn Thị Phương K Nguyễn Thị Hồng T4
đề nghị Toà án giải quyết vắng mặt. Căn cứ khoản 2 Điều 227 khoản 3 Điều
228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà D1, bà N2, bà K
và bà T4.
[2] V ni dung:
[2.1] Về nguồn gốc thửa đất tranh chấp:
Căn cứ hồ quy trình cấp giấy chứng nhận quyền sử đất cho ông Nguyễn
Tài H1, thấy rằng: Thửa đất số 47, tờ bản đồ số 12, tại phường H, thành phố B
được tách ra từ thửa đất số 21, tờ bản đồ số 12, nguồn gốc thửa đất số 21 do
Thị B nhận chuyển nhượng của Văn N6 từ năm 1986 sử dụng ổn định,
chứ không phải B được cấp quyền sử dụng đất theo hình thức do Nhà nước
giao đất, công nhận quyền sử dụng đất cho "Hộ gia đình" hoặc Nhà nước cấp đất
cho hộ theo định suất. Quá trình giải quyết vụ án, Tthẩm đã ra thông báo
yêu cầu nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập
cung cấp chứng cứ chứng minh thửa đất số 21 tài sản chung của hộ gia đình
gồm 10 người theo như lời trình bày của nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan cung cấp chứng cứ chứng minh họ công sức đóng góp đối với
thửa đất 21, thửa đất 47. Tuy nhiên, nguyên đơn người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan yêu cầu độc lập không cung cấp được chứng cứ theo yêu cầu của
Toà án. Mặt khác, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm D1, N2,
K và T4 đều trình bày nguồn gốc đất do bà B nhận chuyển nhượng của n
N6, các bà không công sức đóng góp khẳng định thửa 21, 47 không phải
tài sản chung của h gia đình. Hơn nữa, tại thời điểm B nhận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất của Văn N6 vào năm 1986 thì nguyên đơn ông
Nguyễn Tài H mới được 07 tuổi. Do đó, nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa
15
vụ liên quan yêu cầu độc lập cho rằng thửa đất 47, tờ bản đồ số 12 tài sản
chung của hộ gia đình 10 người gồm B, ông M1, ông H1, ông T2, D1,
N2, ông N3, bà K, bà T3 và ông H là không có căn cứ.
B chồng là ông Nguyễn Văn M1 sống chung với nhau từ trước năm
1954 và có với nhau 12 con chung (ông M1 chết năm 2013, bà B chết năm 2022).
Như vậy, thửa đất 21, tờ bản đồ số 12 được hình thành trong thời kỳ hôn nhân của
B ông M1. Căn cứ vào Điều 15 Luật Hôn nhân gia đình năm 1959,
khoản 1 Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, có cơ sở xác định thửa đất
21, tờ bản đồ số 12 (cũng như thửa đất 47, tờ bản đồ số 12) tài sản chung của
vợ chồng bà Võ Thị B và ông Nguyễn Văn M1.
[2.2] Xét hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 19/5/2005:
Về hình thức hợp đồng: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
19/5/2005 được lập thành văn bản, được chứng thực tại UBND phường H7. Căn
cứ khoản 4 Điều 131, Điều 707 Bộ luật Dân sự năm 1995 và điểm b khoản 1 Điều
127 Luật Đất đai năm 2003, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
19/5/2005 nêu trên có hình thức phù hợp theo quy định.
Về đối tượng chuyển nhượng: Tại thời điểm giao kết hợp đồng ngày
19/5/2005 thì thửa đất 47, tờ bản đồ số 12 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, đất không tranh chấp, quyền sử dụng đất không bị biên để đảm
bảo thi hành án còn trong thời hạn sdụng đất. Như vậy, thửa đất 47, tờ bản
đồ số 12 đáp ứng đủ điều kiện chuyển nhượng theo quy định tại Điều 693 Bộ luật
Dân sự năm 1995, khoản 1 Điều 106 Luật Đất đai năm 2003.
Về mặt chủ thể thực hiện giao dịch:
Như đã phân tích ở trên, thửa đất 47, tờ bản đồ số 12 được tạo lập trong thời
kỳ hôn nhân giữa B ông M1, tài sản chung của vchồng B ông
M1. Tại khoản 3 Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: "...Việc
xác lập, thực hiện chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung
giá trị lớn hoặc nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để
đầu kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận...". Khoản 1 Điều 24
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: " Vợ chồng có thể ủy quyền cho
nhau c lập, thực hiện chấm dứt các giao dịch theo quy định của pháp
luật phải sự đồng ý của cả vợ chồng; việc y quyền phải được lập thành văn
bản...". Đối chiếu các quy định trên, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
ngày 19/5/2005 chỉ B tên, không ông M1 tên hoặc văn bản thể
16
hiện sđồng ý bằng văn bản của ông M1 thiếu sót, không đúng theo quy định
pháp luật.
Đồng thời, Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre đã ra quyết định trưng cầu giám
định đối với chữ “Bay” chữ viết Thị B” trong Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 19/5/2005 giữa Võ Thị BNguyễn Tài H1. Tại
Kết luận giám định số 192/2025/KL-KTHS ngày 12/5/2025 của Phòng K2 Công
an tỉnh B kết luận: Không đủ sở kết luận chữ viết “Bay” chữ viết mang tên
“Võ Thị B” dưới mục Đ/D bên chuyển nhượng QSDĐ” trên mẫu cần giám định
(ký hiệu A) so với chữ dạng chữ viết “Bay”, “Bảy” chviết mang tên Thị
B trên mẫu so sánh (ký hiệu M1 đến M7) phải cùng một người ký, viết ra hay
không.
Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 17/01/2025 người làm chứng ông Phạm
Văn M trình bày, từ năm 2002 ông Nguyễn Văn M1 người cho ông vào cất
chuồng gà, trồng chuối dọn dẹp sạch cỏ cho ông M1 trên phần đất này, mười
mấy năm nay ông làm cỏ giùm ông M1 không thấy ai vào canh tác phần đất này.
Tại Biên bản xác minh ngày 18/4/2025 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre
đối với Nguyễn Thị T7, địa chỉ số B, khu phố A, phường H, thành phố B, giáp
ranh với thửa đất số 47, tờ bản đồ số 12 của ông Nguyễn Văn M1 và bà Võ Thị B,
T7 trình bày: Trên thửa đất 01 chuồng của ông M4 cất từ năm 2002
do ông Nguyễn Văn M1 cho ông M4 cất để nuôi gà, trồng chuối, trong quá
trình trên đất để nuôi gà, trồng chuối thì ông M4 cũng dọn dẹp sạch cỏ cho
ông M1 luôn đất này trước đây toàn cỏ. Từ trước tới nay, đất này là do ông
M1, bà B quản lý và ông M1 là người cho ông M4 cất chuồng gà và giữ đất giùm.
T7 không thấy ông Nguyễn Tài H1 vào quản lý đất.
Tại Biên bản xác minh ngày 18/4/2025 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre
đối với ông Huỳnh Như H5, địa chỉ B, khu phố A, phường H, ông H5 trình bày:
Phần đất thuộc thửa số 47, tờ bản đồ số 12 có nguồn gốc trước đây là của mẹ ông
H5Văn N6 bán cho bác 7 (ông M1, bà B) vào khoảng năm 1980, nhưng lúc
đó còn thuộc A. Đất này ông M1, B quản cho ông M4 cất
chuồng gà, trồng chuối dọn cỏ giùm cho ông M1, B. Hiện nay ông M4 đã
dọn đi nơi khác.
Tòa sơ thẩm nhận định, bà B đã nhận đủ tiền chuyển nhượng quyền sử dụng
đất, ông M1 mặc không tên vào hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất nhưng cũng biết sự việc này; bên nhận chuyển nhượng ông H1 đã
nhận quản lý, sử dụng đất công khai và áp dụng Án lệ số 04/2016/AL ngày
17
06/4/2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để xác định ông M1
biết việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa B ông H1 không ý
kiến phản đối, từ đó tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
19/5/2005 có hiệu lực pháp luật để bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
và yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chưa phù hợp.
Nhận thấy, trong quá trình giải quyết vụ án, ông H1 không có tài liệu, chứng
cứ chứng minh đã giao đủ tiền chuyển nhượng cho B, cũng không tài
liệu, chứng cứ thể hiện ông M1 biết sự việc B hợp đồng chuyển nhượng
thửa đất 47, tờ bản đồ số 12 cho ông H1 cũng như sử dụng số tiền chuyển
nhượng. Thửa đất 47, tờ bản đồ số 12 được xác định là tài sản chung của ông M1
B, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 19/5/2005 giữa B
ông H1 được lập thành văn bản được chứng thực theo quy định của pháp
luật nên hiệu lực đối với phần tài sản của B, hiệu đối với phần tài sản
của ông M1.
[2.3] Xét yêu cầu khởi kiện kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Tài
H; yêu cầu độc lập kháng cáo của người quyền lợi, nghĩa vliên quan ông
Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Tài N, ông Nguyễn Tài T2, ông Nguyễn Sinh T1,
ông Nguyễn Tài N3 và bà Nguyễn Thị Hồng T3:
Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu khởi kiện
kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Tài H; yêu cầu độc lập kháng cáo của
người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Tài N,
ông Nguyễn Tài T2, ông Nguyễn Sinh T1, ông Nguyễn Tài N3Nguyễn Thị
Hồng T3 căn cứ một phần nên được chấp nhận một phần đối với phần tài
sản của ông Nguyễn Văn M1. Cụ thể:
Tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 19/5/2005 giữa
Thị B ông Nguyễn Tài H1 đối với thửa đất 47 tờ bản đồ số 12 diện tích
197,6m
2
tại phường H, thành phố B, tỉnh Bến Tre vô hiệu đối với phần tài sản của
ông Nguyễn Văn M1.
Chấp nhận một phần yêu cầu ông Nguyễn Tài H, ông Nguyễn Văn T, ông
Nguyễn Tài N, ông Nguyễn Tài T2, ông Nguyễn Sinh T1, ông Nguyễn Tài N3
Nguyễn Thị Hồng T3, chia di sản của ông Nguyễn Văn M1 cho 12 người con,
cụ thể như sau:
Tổng số tiền bồi thường thửa đất số 47, tờ bản đồ số 12 1.050.020.000
đồng (giai đoạn 1 ông H1 đã nhận 40.103.000 đồng, giai đoạn 2 số tiền là
1.009.917.000 đồng chưa nhận) là tổng giá trị phần di sản của ông M1 B.
18
Ông H1 được nhận ½ di sản của B là 525.010.000 đồng, ½ di sản của ông M1
525.010.000 đồng được chia đều cho 12 người con, mỗi người được nhận số
tiền 43.750.833 đồng. Như vậy, ông H1 được nhận tổng cộng 568.760.833
đồng. Nhưng do ông H1 đã nhận 40.103.000 đồng tiền bồi thường giai đoạn 1
nên chỉ còn nhận số tiền là 528.657.833 đồng.
Nguyễn Thị Phương D1, bà Nguyễn Thị Kiều N2, bà Nguyễn Thị
Phương K và bà Nguyễn Thị Hồng T4 mỗi người được nhận số tiền là 43.750.833
đồng. Nhưng trong vụ án này, D1, N2, K T4 không yêu cầu
cũng không kháng cáo, do đó Hội đồng xét xử tạm giao số tiền D1,
N2, K, T4 mỗi người được nhận 43.750.833 đồng cho ông Nguyễn Tài
H1 nhận số tiền này. Khi D1, N2, K, T4 yêu cầu thì ông Nguyễn
Tài H1 giao lại cho bà D1, N2, bà K, bà T4 nhận số tiền này.
Như vậy, ông H1 nhận của D1, N2, K, T4 số tiền tổng cộng
175.003.332 đồng số tiền của ông H1 được nhận 528.657.833 đồng, tổng
cộng là 703.661.165 đồng (bảy trăm lẻ ba triệu sáu trăm sáu ơi mốt nghìn một
trăm sáu mươi lăm) đồng.
Ông Nguyễn Tài H, ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Tài N, ông Nguyễn Tài
T2, ông Nguyễn Sinh T1, ông Nguyễn Tài N3 Nguyễn Thị Hồng T3 mỗi
người được nhận số tiền 43.750.833 đồng, tổng cộng 306.255.831 đồng (ba
trăm lẻ sáu triệu hai trăm năm mươi lăm nghìn tám trăm ba mươi mốt) đồng (tiền
bồi thường giai đoạn 2).
[3] Đề nghị của người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn
phần phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận một phần.
[4] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre phù hợp
với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[5] Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch:
Ông Nguyễn Tài H, ông Nguyễn Tài N3, Nguyễn Thị Hồng T3,
Nguyễn Thị Phương D1, Nguyễn Thị Kiều N2, Nguyễn Thị Phương K,
Nguyễn Thị Hồng T4 mỗi người phải chịu số tiền 2.187.542 đồng (hai triệu
một trăm tám mươi bảy nghìn năm trăm bốn mươi hai) đồng.
Do ông H1 giữ số tiền của bà D1, bà N2, bà K, bà T4 được nhận nên ông H1
chịu án phí đối với các kỷ phần D1, N2, K, T4 được nhận như đã
nêu trên.
19
Ông Nguyễn Tài H1, ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Sinh T1, ông Nguyễn
Tài N, ông Nguyễn Tài T2 là người cao tuổi nên được miễn án phí.
[6] Án phí dân sự phúc thẩm:
Do kháng cáo được chấp nhận một phần nên ông Nguyễn Tài H, ông
Nguyễn Tài N3 Nguyễn Thị Hồng T3 không phải chịu. H6 lại cho ông H,
ông N3, T3 số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Tài N, ông Nguyễn Tài T2, ông Nguyễn
Sinh T1 là người cao tuổi nên được miễn án phí.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015,
Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Nguyễn Tài H, ông Nguyễn Văn T,
ông Nguyễn Tài N, ông Nguyễn Tài T2, ông Nguyễn Sinh T1, ông Nguyễn Tài
N3, bà Nguyễn Thị Hồng T3.
Sửa Bản án dân sự thẩm số 161/2024/DS-ST ngày 06 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre.
Cụ thể tuyên:
Căn cứ Điều 15 Luật Hôn nhân gia đình năm 1959; Khoản 1 Điều 27
Luật Hôn nhân gia đình 2000; Điều 131, Điều 690, Điều 695 Bộ luật Dân sự
năm 1995; Điều 106, 127 Luật Đất đai năm 2003; Điều 26, điểm a khoản 1 Điều
35, điểm c khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 Điều 273 Bộ luật
Tố tụng dân s; Điều 12, Điều 26, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Tài
H, cụ thể như sau:
Tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 19/5/2005 giữa
Thị B ông Nguyễn Tài H1 đối với thửa đất 47 tờ bản đồ số 12, diện tích
197,6 m
2
tại phường H, thành phố B, tỉnh Bến Tre vô hiệu một phần đối với phần
tài sản của ông Nguyễn Văn M1.
Chấp nhận một phần yêu cầu chia tài sản chung của ông Nguyễn Tài H:
Ông Nguyễn Tài H được nhận số tiền là 43.750.833 đồng (bốn mươi ba triệu
bảy trăm năm mươi nghìn tám trăm ba mươi ba) đồng.
20
2. Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Tài N, ông Nguyễn Tài T2, ông
Nguyễn Sinh T1, ông Nguyễn Tài N3 Nguyễn Thị Hồng T3, cụ thể như
sau:
Tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 19/5/2005 giữa
Thị B ông Nguyễn Tài H1 đối với thửa đất 47 tờ bản đồ số 12, diện tích
197,6 m
2
tại phường H, thành phố B, tỉnh Bến Tre vô hiệu một phần đối với phần
tài sản của ông Nguyễn Văn M1.
Chấp nhận một phần yêu cầu chia tài sản chung của ông Nguyễn Văn T, ông
Nguyễn Tài N, ông Nguyễn Tài T2, ông Nguyễn Sinh T1, ông Nguyễn Tài N3
Nguyễn Thị Hồng T3:
Ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Tài N, ông Nguyễn Tài T2, ông Nguyễn
Sinh T1, ông Nguyễn Tài N3 Nguyễn Thị Hồng T3 mỗi người được nhận
số tiền là 43.750.833 đồng (bốn mươi ba triệu bảy trăm năm mươi nghìn tám trăm
ba mươi ba) đồng.
3. Ông Nguyễn Tài H1 được nhận số tiền 528.657.833 (năm trăm hai
mươi tám triệu sáu trăm năm mươi bảy nghìn tám trăm ba mươi ba) đồng.
4. Nguyễn Thị Phương D1, Nguyễn Thị Kiều N2, bà Nguyễn Thị
Phương K và bà Nguyễn Thị Hồng T4 mỗi người được nhận số tiền là 43.750.833
đồng (bốn mươi ba triệu bảy trăm năm mươi nghìn tám trăm ba mươi ba) đồng.
Tạm giao số tiền bà D1, N2, K, T4 mỗi người được nhận 43.750.833
đồng cho ông Nguyễn Tài H1 nhận số tiền này. Tổng số tiền ông H1 nhận thay bà
D1, bà N2, K, T4 là 175.003.332 (một trăm bảy mươi lăm triệu không trăm
lẻ ba nghìn ba trăm ba mươi hai) đồng. Khi bà D1, bà N2, bà K, bà T4 có yêu cầu
nhận thì ông Nguyễn Tài H1 giao lại cho bà D1, N2, bà K, bà T4 số tiền này.
Các đương sự được quyền liên hệ Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố B
để được hướng dẫn thủ tục nhận số tiền bồi thường giai đoạn 2 theo nội dung bản
án đã tuyên.
5. Về chi phí tố tụng: Số tiền 5.364.000 đồng, ông Nguyễn Tài H đã nộp tạm
ứng trước. Ông Nguyễn Tài H, ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Tài N, ông
Nguyễn Tài T2, ông Nguyễn Sinh T1, ông Nguyễn Tài N3, Nguyễn Thị Hồng
T3 phải liên đới chịu số tiền là 2.682.000 đồng.
Ông Nguyễn Tài H1 hoàn lại cho ông Nguyễn Tài H số tiền 2.682.000
đồng.
21
6. Án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch:
Ông Nguyễn Tài H nghĩa vchịu án phí dân sự thẩm không giá
ngạch với tổng số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng nhưng được khấu trừ vào số
tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai số
0009962 ngày 26/10/2022 số tiền 2.188.000 (hai triệu một trăm tám mươi tám
nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0002770 ngày 22/8/2024 của Chi
cục Thi hành án dân sthành phố Bến Tre. Ông Nguyễn Tài H được nhận lại số
tiền là 2.188.000 (hai triệu một trăm tám mươi tám nghìn) đồng.
Ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Tài N, ông Nguyễn Tài T2 người cao
tuổi nên được miễn nộp án phí.
Ông Nguyễn Sinh T1 là người cao tuổi nên được miễn nộp án phí. Ông
Nguyễn Sinh T1 được nhận lại số tiền tạm ứng án phí trước đây đã nộp
556.000 (năm trăm năm mươi sáu nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí số
0007119 ngày 26/6/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bến Tre.
Ông Nguyễn Tài N3 nghĩa vụ chịu án pdân sự thẩm không giá
ngạch với tổng số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng nhưng được khấu trừ vào số
tiền tạm ứng án phí đã nộp 1.111.500 (một triệu một trăm mười một nghìn năm
trăm) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0007120 ngày 26/6/2023 và số tiền
1.376.000 (một triệu ba trăm bảy mươi sáu nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng
án phí số 0002771 ngày 22/8/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bến
Tre. Ông Nguyễn Tài N3 được nhận lại số tiền 2.187.500 (hai triệu một trăm
tám mươi bảy nghìn năm trăm) đồng.
Nguyễn Thị Hồng T3 nghĩa vụ chịu án phí dân sự thẩm không
giá ngạch với tổng số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng nhưng được khấu trừ vào
số tiền tạm ứng án phí đã nộp 1.111.500 (một triệu một trăm mười một nghìn năm
trăm) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0007121 ngày 26/6/2023 và số tiền
1.376.000 (một triệu ba trăm bảy mươi sáu nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng
án phí số 0002772 ngày 22/8/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bến
Tre. Nguyễn Thị Hồng T3 được nhận lại số tiền 2.187.500 (hai triệu một
trăm tám mươi bảy nghìn năm trăm) đồng.
7. Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch:
Ông Nguyễn Tài H, ông Nguyễn Tài N3, Nguyễn Thị Hồng T3 mỗi
người phải chịu số tiền 2.187.542 (hai triệu một trăm tám mươi bảy nghìn năm
trăm bốn mươi hai) đồng.
22
Nguyễn Thị Phương D1, bà Nguyễn Thị Kiều N2, bà Nguyễn Thị
Phương K, bà Nguyễn Thị Hồng T4 mỗi người phải chịu số tiền là 2.187.542 (hai
triệu một trăm tám mươi bảy nghìn năm trăm bốn mươi hai) đồng. Do ông
Nguyễn Tài H1 giữ số tiền của D1, N2, bà K, T4 được nhận nên ông H1
chịu án phí đối với các kỷ phần D1, N2, K, T4 được nhận như đã
nêu trên.
Ông Nguyễn Tài H1, ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Sinh T1, ông Nguyễn
Tài N, ông Nguyễn Tài T2 là người cao tuổi nên được miễn án phí.
8. Án phí dân sự phúc thẩm:
Ông Nguyễn Tài H, ông Nguyễn Tài N3 bà Nguyễn Thị Hồng T3 không
phải chịu. H6 lại cho ông H, ông N3, T3 số tiền tạm ứng án phí mỗi người đã
nộp là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0002831
ngày 19/9/2024 và số 0002822, 0002823 ngày 18/9/2024 của Chi cục Thi hành án
dân sự thành phố Bến Tre.
Ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Tài N, ông Nguyễn Tài T2, ông Nguyễn
Sinh T1 được miễn án phí.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định Điều 2 Luật thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật
thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- Các đương sự; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Bến Tre;
- TAND thành phố Bến Tre;
- Chi cục THADS thành phố Bến Tre;
- Phòng KT-TT&THA TAND tỉnh;
- Lưu hồ sơ vụ án, VP.
Nguyễn Chí Đức
Tải về
Bản án số 269/2025/DS-PT Bản án số 269/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 269/2025/DS-PT Bản án số 269/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất