Bản án số 244/2019/HS-ST ngày 30/12/2019 của TAND Q. Hà Đông, TP. Hà Nội về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 244/2019/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 244/2019/HS-ST ngày 30/12/2019 của TAND Q. Hà Đông, TP. Hà Nội về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Tội danh: 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND Q. Hà Đông (TAND TP. Hà Nội)
Số hiệu: 244/2019/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/12/2019
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ: Không
Đính chính: Không
Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 244/2019/HS-ST NGÀY 30/12/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 250/2019/TLST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 244/2019/QĐXXST- HS ngày 12 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo:

Đỗ Ngọc L, sinh năm 1991. Hộ khẩu thường trú: Thôn P, xã Q, huyện X, tỉnh Thanh Hóa. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12. Con ông Đỗ Ngọc T, sinh năm 1960 và bà Lê Thị H, sinh năm 1962; Vợ, con: Chưa có. Tiền án: Không; Tiền sự: Quyết định số 138/QĐ-XLVPHC ngày 12/7/2018 của Công an huyện T, Thanh Hóa xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản” (mới nộp tiền phạt 800.000 đồng ngày 06/11/2019). Nhân thân: Tháng 9/2016, Công an xã Q, huyện X, Thanh Hóa xử phạt hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Danh chỉ bản số 568 lập ngày 29/10/2019 tại Công an quận Hà Đông, Hà Nội.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 27/10/2019. Hiện đang tạm giam tại Trại giam số 2, Công an Thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Phạm Văn C, sinh năm 1989. Trú tại: Xã Đ, huyện X, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 45 phút ngày 26/10/2019, tại ngã tư đường P - T, thuộc phường K, quận H, tổ công tác Y14/141 Công an Thành phố Hà Nội phối hợp với Công an phường K kiểm tra phát hiện, bắt quả tang Đỗ Ngọc L (điều khiển xe máy nhãn hiệu SUNFAT màu đen, BKS 19U1 - xxxx) đang cất giữ tại túi quần trước bên trái 01 gói giấy màu vàng, bên trong chứa chất bột màu trắng L khai là Heroin. Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 gói giấy màu vàng: (1x1) cm, bên trong chứa chất bột màu trắng.

- 01 xe máy nhãn hiệu SUNFAT màu đen, BKS 19U1-xxxx (số máy VPJLP50FMG528960, số khung RPJWCG1PJ5A528960).

Tại Cơ quan điều tra, L khai nhận: Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 26/10/2019, L đi xe máy SUNFAT màu đen, BKS 19U1-xxxx từ nơi thuê trọ ở Đ, quận T đến khu vực Bệnh viện X, quận T mua của một người đàn ông không quen biết 100.000 đồng được 01 gói giấy màu vàng chứa ma túy là Heroin mục đích sử dụng cho bản thân. Mua xong, L cất vào túi quần bên trái đang mặc đi tìm nơi sử dụng. Khi L đi đến ngã tư đường P - T (thuộc phường K, quận H) thì bị lực lượng Công an kiểm tra, bắt giữ quả tang.

Cơ quan điều tra Công an quận H đã ra quyết định trưng cầu giám định đối với vật chứng thu giữ của Đỗ Ngọc L. Tại bản kết luận giám định số 6850/KLGĐ- PC09 ngày 05/11/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, kết luận: Chất bột màu trắng bên trong bên trong 01 gói giấy bạc màu vàng là ma túy loại Heroin, khối lượng 0,117g.

Về người bán ma túy cho L: Ngoài lời khai của L không có thông tin căn cứ nào khác nên không đủ cơ sở làm rõ, xử lý.

Chiếc xe máy nhãn hiệu SUNFAT màu đen, BKS 19U1-xxxx (số máy VPJLP50FMG528960, số khung RPJWCG1PJ5A528960) quá trình điều tra đã xác định là tài sản hợp pháp của anh Phạm Văn C cho L mượn để sử dụng. Anh C không biết L dùng xe máy vào việc phạm tội và có đơn xin nhận lại xe. Ngày 29/11/2019, Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe nêu trên cho anh C.

Tại Cáo trạng số 250/CT-VKS-HĐ ngày 30/11/2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội truy tố Đỗ Ngọc L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và sau khi xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt Đỗ Ngọc L từ 15 đến 18 tháng tù và đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy số ma túy là vật chứng đã thu giữ của bị cáo.

Bị cáo xin được xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai nhận tội của bị cáo và các tài liệu chứng cứ khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan C sát điều tra Công an quận Hà Đông, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với biên bản phạm pháp quả tang, kết luận giám định, lời khai người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 13 giờ 45 phút ngày 26/10/2019, tại ngã tư đường P - T (thuộc phường K, quận H), Đỗ Ngọc L đã có hành vi mang theo người 01 gói giấy màu vàng chứa ma túy loại Heroin khối lượng 0,117 g để sử dụng cho bản thân, thì bị tổ công tác Công an thành phố Hà Nội phối hợp với Công an phường K, quận H kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng.

Hành vi nêu trên của Đỗ Ngọc L đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt đã được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội đã truy tố.

[3] Về tính chất vụ án, hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, làm gia tăng tệ nạn ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội nên cần có mức hình phạt phù hợp đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt: Bị cáo đã từng bị xử lý về hành vi vi phạm pháp luật, nhưng không lấy đó làm bài học tu dưỡng rèn luyện bản thân mà tiếp tục lao vào con đường nghiện ngập, phạm tội nên cần thiết phải áp dụng hình phạt cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; bị cáo có bà nội là mẹ Việt nam anh hùng nên được xem xét giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên ngoài hình phạt chính không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung.

[6] Về xử lý vật chứng: Số ma túy đã thu giữ của bị cáo không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy. Chiếc xe máy nhãn hiệu SUNFAT màu đen, BKS 19U1 - xxxx, đã được xác định là tài sản hợp pháp của anh Phạm Văn C cho L mượn để sử dụng. Anh C không biết L dùng xe máy vào việc phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh C là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định.

Từ những nhận định trên;

QUYẾT ĐỊNH:

1. Tuyên bố bị cáo Đỗ Ngọc L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): Xử phạt bị cáo Đỗ Ngọc L 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/10/2019.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ được đựng trong 01 phong bì niêm phong, tại các mép dán có chữ ký của Đỗ Ngọc L, cán bộ Vương Văn Duẩn và giám định viên Nguyễn Hoàng Hùng.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/12/2019 giữa Cơ quan C sát điều tra Công an quận Hà Đông, thành phố Hà Nội với Chi cục Thi hành án dân sự quận Hà Đông, thành phố Hà Nội).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng điều 331, điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất