Bản án số 235/2025/DSPT ngày 27/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 235/2025/DSPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 235/2025/DSPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 235/2025/DSPT
Tên Bản án: | Bản án số 235/2025/DSPT ngày 27/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 235/2025/DSPT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 27/03/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 235/2025/DS-PT
Ngày 27 tháng 3 năm 2025
V/v: “Tranh chấp hợp đồng thuê quyền
sử dụng đất; yêu cầu hủy Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Trần Thị Thúy Hồng
Các Thẩm phán: Ông Trần Văn Mười
Ông Dương Anh Văn
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Trung Kiên - Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Bà Trần Thị Huệ - Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố
Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số:
656/2024/TLPT-DS ngày 02 tháng 10 năm 2024 về việc: “Tranh chấp hợp đồng
thuê quyền sử dụng đất; yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 84/2024/DS-ST ngày 26/6/2024 của Tòa án
nhân dân tỉnh An Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 342/2025/QĐPT-DS ngày
21 tháng 02 năm 2025 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:
1.1 Ông Châu Văn Hồng Ngào, sinh năm 1967; vắng mặt.
1.2 Bà Nguyễn Thị Thanh Thúy, sinh năm 1966; vắng mặt.
Cùng địa chỉ: Số 119, tổ 05, ấp Long Bình, xã Long Điền A, huyện Chợ Mới,
tỉnh An Giang.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Hồ Trung Châu, sinh năm
1970. Địa chỉ: Tổ 20, ấp Long Bình, xã Long Điền A, huyện Chợ Mới, tỉnh An
Giang; có mặt.
2. Bị đơn:
2.1 Ông Lê Văn Hùng, sinh năm 1974; vắng mặt.
2.2 Bà Nguyễn Thị Út Dứt, sinh năm 1984; vắng mặt.
2
Cùng địa chỉ: Số 413, tổ 19, ấp Long Hòa 1, xã Long Điền A, huyện Chợ Mới,
tỉnh An Giang.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Bà Lê Thị Lài, sinh năm 1965. Địa
chỉ: Ấp Long Hòa, thị trấn Chợ Mới, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang (theo Văn bản
ủy quyền ngày 13/01/2023); có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1 Cụ Lê Văn Bằng, sinh năm 1929 (chết ngày 02/12/2023). Địa chỉ: Số 413,
tổ 19, ấp Long Hòa 1, xã Long Điền A, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.
Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của cụ Bằng gồm:
3.1.1 Bà Lê Thị Lài, sinh năm 1965. Địa chỉ: Ấp Long Hòa, thị trấn Chợ Mới,
huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang; có mặt.
3.1.2 Bà Lê Thị Thủy, sinh năm 1968. Địa chỉ: Ấp Gò Thuyền, thị trấn Tân Hưng,
huyện Tân Hưng, tỉnh Long An; xin xét xử vắng mặt.
3.1.3 Bà Lê Thị Bo, sinh năm 1970. Địa chỉ: Ấp Gò Thuyền, thị trấn Tân Hưng,
huyện Tân Hưng, tỉnh Long An; xin xét xử vắng mặt.
3.1.4 Bà Lê Thị Dớn, sinh năm 1972. Địa chỉ: Ấp Long Hòa 1, xã Long Điền A,
huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang; có mặt.
3.1.5 Ông Lê Văn Hùng, sinh năm 1974. Địa chỉ: Số 413, tổ 19, ấp Long Hòa 1,
xã Long Điền A, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang; có mặt.
3.1.6 Bà Lê Thị Trường An, sinh năm 1980. Địa chỉ: Ấp Hòa Bình, xã Kiến An, thị
trấn Chợ Mới, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang; xin xét xử vắng mặt.
3.2 Anh Lê Hoàng Lãm, sinh năm 1999; xin xét xử vắng mặt.
3.3 Anh Lê Hoàng Trung, sinh năm 2003; xin xét xử vắng mặt.
3.4 Cháu Lê Hoàng Em, sinh năm 2009.
Cùng địa chỉ: Số 413, tổ 19, ấp Long Hòa 1, xã Long Điền A, huyện Chợ Mới,
tỉnh An Giang.
Người đại diện theo pháp luật của cháu Lê Hoàng Em: Ông Lê Văn Hùng, sinh
năm 1974 và bà Nguyễn Thị Út Dứt, sinh năm 1984. Cùng địa chỉ: Số 413, tổ 19, ấp
Long Hòa 1, xã Long Điền A, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang; có mặt.
3.5 Ủy ban nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang; xin xét xử vắng mặt.
4. Người kháng cáo: Ông Châu Văn Hồng Ngào và bà Nguyễn Thị Thanh
Thúy – Là nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn
ông Châu Văn Hồng Ngào và bà Nguyễn Thị Thanh Thúy và người đại diện theo
ủy quyền của nguyên đơn ông Hồ Trung Châu trình bày: Ông Ngào có diện tích đất
800m
2
tọa lạc ấp Long Hòa 1, xã Long Điền A, huyện Chợ Mới thuộc thửa đất số
151, tờ bản đồ số 6, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 02922QSDĐ/pB
3
do Ủy ban nhân dân huyện Chợ Mới cấp cho ông Ngào ngày 10/8/2000. Nguồn gốc
đất là của cha mẹ ông Ngào cho lại vào năm 1998, lúc này đất chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất.
Tuy nhiên, vào năm 1977 mẹ ông Ngào tên Nguyễn Thị Le đã cho ông Bằng
(cha ruột ông Hùng) thuê đất để cất nhà ở, khi thuê với diện tích ngang 7m dài
15m, thời gian thuê là 20 năm, đến năm 1997 là hết hạn thuê việc thuê đất có làm
giấy tay với nhau có chữ ký của vợ chồng ông Bằng và bà Phường. Sau khi hết hạn
thuê đất ông Hùng là con ruột sinh sống trong gia đình với ông Bằng gặp trao đổi
với ông Ngào để tiếp tục thuê đất, hai bên chỉ trao đổi thuê ở để tìm nơi ở mới mà
không nói hạn trả và cũng không làm giấy tờ. Nhưng cho đến nay ông Hùng không
trả tiền thuê đất, còn cất lấn thêm diện tích của ông Ngào.
Do đó ông Ngào, bà Thúy khởi kiện yêu cầu buộc ông Hùng, bà Dứt di dời
nhà chính, nhà bếp, sàn nước trả lại cho ông Ngào, bà Thúy diện tích 151.8m
2
thuộc diện tích đất 800m
2
tọa lạc ấp Long Hòa 1, xã Long Điền A, huyện Chợ Mới
thửa đất số 151, tờ bản đồ số 6, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
02922QSDĐ/pB do Ủy ban nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp ngày
10/8/2000 cho ông Châu Văn Hồng Ngào.
Theo đo đạc thực tế xác định diện tích đất tranh chấp có tăng và phát sinh
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan sinh sống trên đất. Do đó ông Ngào, bà
Thúy có đơn bổ sung yêu cầu khởi kiện yêu cầu ông Hùng, bà Dứt, ông Bằng (chết)
nên các con của ông Bằng, anh Lãm, anh Trung, cháu Em di dời nhà chính, nhà
bếp, sàn nước trả lại cho ông Ngào, bà Thúy diện tích thuê 175,2m
2
thuộc diện tích
đất 800m
2
tọa lạc ấp Long Hoa 1, xã Long Điền A, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang,
thửa đất số 151, tờ bản đồ số 6, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 02922
QSDĐ/pB do Ủy ban nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp ngày 10/8/2000
cho ông Châu Văn Hồng Ngào.
- Bị đơn ông Lê Văn Hùng và bà Nguyễn Thị Út Dứt có bà Lê Thị Lài là người
đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày:
Nguồn gốc đất tranh chấp là của mẹ ruột ông Ngào là bà Le bán cho cha ông
Hùng là ông Bằng vào năm 1974, nhưng không làm giấy tờ có bác ruột tên Tổng
(đã chết) làm chứng, bán diện tích bao nhiêu không rõ chỉ nói cho cất nhà trước và
nhà sau như hiện trạng, mua với giá 60.000 đồng. Ông Bằng đã tiền đầy đủ cho bà
Le và sử dụng diện tích đất từ năm 1974 cho đến nay, nhà hư ván lót ông Bằng có
sửa chữa nhưng hiện trạng vẫn không thay đổi. Ông Hùng đã sinh sống cùng ông
Bằng từ khi sinh ra cho đến nay.
Trong quá trình sử dụng không ai tranh chấp, đến thời điểm ông Bằng lớn tuổi
có nhu cầu xây dựng nhà vệ sinh, ông Bằng nhờ người đến gặp ông Ngào để xin cất
thêm phần nhà vệ sinh không nằm trong diện tích đất ông Bằng mua. Sự việc
không được ông Ngào đồng ý, lúc này ông Bằng tự xây cất thì xảy ra tranh chấp.
Nay bị đơn ông Hùng và bà Dứt yêu cầu được tiếp tục sử dụng diện tích đất tranh
chấp theo sơ đồ đo vẽ của văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh huyện Chợ Mới đo
vẽ là 175,2m
2
trong đó diện tích nhà vệ sinh xây cất không được sự đồng ý của ông
Ngào, yêu cầu được sử dụng và đồng ý hoàn lại giá trị đất cho ông Ngào. Yêu cầu
hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích đất 800m
2
tọa lạc ấp Long Hòa 1,
4
xã Long Điền A, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, thửa đất số 151, tờ bản đồ số 6,
theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 02922QSDĐ/pB do Ủy ban nhân dân
huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp ngày 10/8/2000 cho ông Châu Văn Hồng Ngào.
- Người đại diện hợp pháp cho Lê Hoàng Em có ông Lê Văn Hùng và bà
Nguyễn Thị Út Dứt: Thống nhất với nội dung trình bày của ông Hùng và bà Út Dứt.
- Bà Lê Thị Thủy, bà Lê Thị Bo, bà Lê Thị Dớn, Lê Thị Trường An là người kế
thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Lê Văn Bằng: Không có ý kiến và có văn
bản xin xét xử vắng mặt.
- Bà Lê Thị Lài là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Lê Văn
Bằng có trình bày: Bà Lài là chị ruột của ông Hùng. Phần đất mà ông Hùng đang
sử dụng là của cha Lê Văn Bằng (chết) với mẹ Phạm Thị Phường mà của cha mẹ
ông Ngào vào năm 1974 đến năm 1975 cha mẹ tôi cất nhà, việc mua bán không
làm giấy tờ (lúc này bà Le mẹ ông Ngào cũng không được cấp quyền sử dụng đất)
mua giá 60.000 đồng trên diện tích đất cụ thể không rõ, chỉ biết cất nhà chính và
nhà sau, diện tích sàn nước, nhà vệ sinh xây cất sau. Hiện trạng vẫn không được cải
tạo thêm. Bà Le bán lại là cất nhà cho đến nay, không cải tạo thêm đất mới. Nay
không đồng ý với ý kiến của ông Hùng không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn
ông Ngào đòi lại đất.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lê Hoàng Lãm, Lê Hoàng Trung
trình bày, Lê Hoàng Em: Thống nhất với ý kiến của ông Lê Văn Hùng và bà
Nguyễn Thị Út Dứt. Xin vắng mặt khi Tòa án giải quyết vụ án.
- Tại Văn bản số 1782/UBND-NC ngày 23/8/2023 Ủy ban nhân dân huyện
Chợ Mới, tỉnh An Giang có ý kiến: Theo đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất của
ông Châu Văn Hồng Ngào (không ghi ngày tháng năm) thì nguồn gốc là của mẹ là
Nguyễn Thị Le cho ông vào năm 1990. Diện tích 1003m2 đất ở tại nông thôn và
đất trồng cây lâu năm toạ lạc tại ấp Long Hoà 1 xã Long Điền A, huyện Chợ Mới.
Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 02922/pB ngày 10/8/2000 diện
tích 1.003m2 thuộc tờ bản đồ số 06, số thửa 37, 151 đất ở tại nông thôn và đất
trồng cây lâu năm cho ông Ngào được thực hiện theo quyết định số 283/1999/QĐ-
UBND ngày 13/002/1999 của UBND tỉnh An Giang quy định về trình tự, thủ tục
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở, đất vườn, đất chuyên dùng tại nông thôn.
Liên quan đến yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 02922/pB
do UBND huyện Chợ Mới cấp cho ông Châu Văn Hồng Ngào ngày 10/8/2000 thì
UBND huyện Chợ Mới không có ý kiến mà đề nghị Toà án xét xử theo quy định
của pháp luật.
- Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 84/2024/DS-ST ngày 26/6/2024 của Tòa án
nhân dân tỉnh An Giang đã quyết định:
Căn cứ vào khoản 2 khoản 9 Điều 26, Điều 34, Điều 147, Điều 157, Điều 165,
Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 106; 203 Luật Đất đai năm 2013;
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí,
lệ phí Tòa án.
5
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Châu Văn Hồng Ngào, bà
Nguyễn Thị Thanh Thúy yêu cầu ông Lê Văn Hùng, bà Lê Thị Út Dứt, bà Lê Thị
Lài, bà Lê Thị Thủy, bà Lê Thị Bo, bà Lê Thị Dớn, bà Lê Thị Trường An, anh Lê
Hoàng Lãm, anh Lê Hoàng Trung, cháu Lê Hoàng Em về yêu cầu trả giá trị đất đối
với phần nhà vệ sinh có diện tích 16,4m
2
.
2. Không chấp nhận yêu cầu yêu cầu khởi kiện của ông Châu Văn Hồng
Ngào, bà Nguyễn Thị Thanh Thúy yêu cầu ông Lê Văn Hùng, bà Lê Thị Út Dứt, bà
Lê Thị Lài, bà Lê Thị Thủy, bà Lê Thị Bo, bà Lê Thị Dớn, bà Lê Thị Trường An,
anh Lê Hoàng Lãm, anh Lê Hoàng Trung, cháu Lê Hoàng Em di dời nhà chính, nhà
bếp, sàn nước trả lại diện tích thuê 175,2m
2
thuộc diện tích đất 800m
2
tọa lạc ấp
Long Hòa 1, xã Long Điền A, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, thửa đất số 151, tờ
bản đồ số 6, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 02922QSDĐ/pB do Ủy
ban nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp ngày 10/8/2000 cho ông Châu
Văn Hồng Ngào.
3. Chấp nhận yêu cầu của ông Lê Văn Hùng, bà Nguyễn Thị Út Dứt về việc
yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 02922QSDĐ/pB do Ủy ban
nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp ngày 10/8/2000 cho ông Châu Văn
Hồng Ngào.
Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 02922QSDĐ/pB do Ủy ban nhân
dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp ngày 10/8/2000 cho ông Châu Văn Hồng
Ngào, diện tích đất 800m
2
, thửa đất số 151, tờ bản đồ số 6, tọa lạc ấp Long Hòa 1,
xã Long Điền A, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.
Ông Lê Văn Hùng, bà Nguyễn Thị Út Dứt được quyền sử dụng phần đất diện
tích 175,2m
2
tại các điểm 3, 4, 12, 11 theo Bản trích đo hiện trạng khu đất do Văn
phòng đăng ký đất đai chi nhánh Chợ Mới đo vẽ ngày 22/02/2024, tọa lạc ấp Long
Hòa 1, xã Long Điền A, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.
Ông Lê Văn Hùng, bà Nguyễn Thị Út Dứt có nghĩa vụ bồi hoàn giá trị đất cho
ông Châu Văn Hồng Ngào, bà Nguyễn Thị Thanh Thúy số tiền 21.303.600 đồng.
Ông Lê Văn Hùng, bà Nguyễn Thị Út Dứt, ông Châu Văn Hồng Ngào, bà
Nguyễn Thị Thanh Thúy có trách nhiệm đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến
hành các thủ tục hành chính về đất đai theo quy định của pháp luật về đất đai.
(Kèm theo bản trích đo hiện trạng khu đất tranh chấp của Văn phòng đăng ký
đất đai chi nhánh Chợ Mới lập ngày 22/02/2024)
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng; về án phí dân sự sơ
thẩm; về quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
- Ngày 01/7/2024, nguyên đơn ông Châu Văn Hồng Ngào và bà Nguyễn Thị
Thanh Thúy kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm yêu cầu tòa án cấp phúc thẩm xét xử
lại vụ án, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Châu Văn Hồng Ngào và
bà Nguyễn Thị Thanh Thúy yêu cầu ông Hùng và bà Dứt trả cho ông Ngào giá trị
quyền sử dụng đất diện tích 175,2m
2
thuộc thửa 151, tờ bản đồ số 6 toạ lạc tại ấp
6
Long Hoà 1, xã Long Điền A, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang với số tiền
130.000.000 đồng. Ông Ngào đồng ý cho ông Hùng và bà Dứt được quyền sử dụng
diện tích đất nêu trên .
- Bị đơn ông Hùng, bà Dứt không đồng ý với yêu cầu kháng cáo của nguyên
đơn. Ông Hùng và bà Dứt chỉ đồng ý trả cho nguyên đơn số tiền theo Bản án sơ thẩm
đã tuyên.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát
biểu quan điểm giải quyết vụ án:
Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã thực
hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Pháp Luật tố tụng dân sự; đơn
kháng cáo của nguyên đơn hợp lệ đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
Về nội dung kháng cáo: Xét thấy bản sơ thẩm đã xử công nhận cho ông Hùng
và bà Dứt được quyền sử dụng diện tích đất 175,2m
2
đất là có căn cứ. Tuy nhiên,
Bản án sơ thẩm buộc ông Hùng và bà Dứt trả giá trị quyền sử dụng đất cho ông
Ngào diện tích 16,4m
2
là chưa phù hợp. Theo Chứng thư thẩm định giá ngày
02/4/2024 của Công ty Thẩm định giá Đất Việt đã xác định giá đất tại vị trí tranh
chấp có giá 1.299.000đ/m
2
. Do đó, đề nghị chấp nhận một phần kháng cáo của ông
Ngào, sửa án sơ thẩm, buộc ông Hùng và bà Dứt trả giá trị diện tích 70,2m
2
đất cho
ông Ngào bằng 70,2m
2
x 1.299.000 đồng/m
2
= 91.189.800 đồng là có căn cứ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại
phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Đơn kháng cáo của nguyên đơn ông Châu Văn Hồng Ngào và bà Nguyễn
Thị Thanh Thúy làm trong thời hạn luật định, đủ điều kiện để xem xét giải quyết
theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Nguyên đơn và bị đơn đều thống nhất khai thửa đất 151 tờ bản đồ số 6 lạc
tại ấp Long Hòa 1, xã Long Điền A, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang có nguồn gốc
của cụ Nguyễn Thị Le là mẹ ruột của ông Châu Văn Hồng Ngào.
Nguyên đơn ông Ngào khai vào năm 1977 cụ Le đã cho cụ Bằng (cha ruột
ông Hùng) thuê đất để cất nhà ở, khi thuê với diện tích ngang 7m dài 15m, thời
gian thuê là 20 năm, đến năm 1997 là hết hạn thuê, việc thuê đất có làm giấy tay
với nhau có chữ ký của vợ chồng cụ Bằng và cụ Phường. Sau khi hết hạn thuê đất
ông Hùng là con ruột sinh sống trong gia đình với cụ Bằng gặp trao đổi với ông
Ngào để tiếp tục thuê đất, hai bên chỉ trao đổi thuê để tìm nơi ở mới mà không nói
hạn trả và cũng không làm giấy tờ. Nhưng thời gian kéo dài đến nay ông Hùng
không trả tiền thuê đất, còn cất lấn thêm diện tích đất của ông Ngào để xây dựng
công trình phụ nhà vệ sinh trên đất của ông Ngào.
Còn bị đơn ông Hùng, bà Dứt thì cho rằng vào năm 1974 cụ Le bán phần đất
cho ông Bằng, nhưng không làm giấy tờ có bác ruột tên Tổng (đã chết) làm chứng,
bán diện tích bao nhiêu không rõ chỉ nói cho cất nhà trước và nhà sau ngang 7 mét
dài 15 mét như hiện trạng, với giá 60.000 đồng. Cụ Bằng đã trả tiền đầy đủ cho cụ
Le và sử dụng diện tích đất từ năm 1974 cho đến nay. Khi nhà hư ván lót cụ Bằng
7
có sửa chữa nhưng hiện trạng vẫn không thay đổi. Ông Hùng đã sinh sống cùng cụ
Bằng từ khi sinh ra cho đến nay. Trong quá trình sử dụng không ai tranh chấp, sau
đó cụ Bằng lớn tuổi có nhu cầu xây dựng nhà vệ sinh để sử dụng, cụ Bằng nhờ
người đến gặp ông Ngào để xin cất thêm phần nhà vệ sinh không nằm trong diện
tích đất cụ Bằng mua. Nhưng ông Ngào không đồng ý. Sau đó gia đình ông Hùng
tự xây cất cất thêm phần nhà vệ sinh thì xảy ra tranh chấp, đến năm 2023 cụ Bằng
chết. Ông Hùng và bà Dứt yêu cầu được tiếp tục sử dụng phần đất có gắn nhà và
các công trình phụ trên đất nêu trên và yêu cầu huỷ Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số: 02922QSDĐ/pB ngày 10/8/2000 do Ủy ban nhân dân huyện Chợ Mới
cấp cho ông Châu Văn Hồng Ngào đối với thửa đất 151, tờ bản đồ số 6 diện tích
800m
2
tọa lạc tại ấp Long Điền 1, xã Long Điền A, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.
[3] Nguyên đơn ông Ngào có cung cấp bản chính “Tờ cho mướn đất thổ cư”
viết tay với nội dung: “Đàng cho mướn đất bà Nguyễn Thị Le bằng lòng cho vợ
chồng Lê Văn Bằng, Phạm Thị Phường mướn đất thổ cư cất nhà ở, bề ngang 7 mét,
bề dài 15 mét. Cho mướn thời hạn là 20 năm kể từ năm 1975 đến hết năm 1995 làm
mãng thời hạn giao kèo với số bạc 20.000 đồng”. Bị đơn ông Hùng không thừa
nhận việc thuê đất theo tờ mướn đất thổ cư do ông Ngào cung cấp và có yêu cầu
giám định chữ ký và chữ viết của cụ Bằng trong “Tờ cho mướn đất thổ cư”.
Tại kết luận giám định số: 1494/KL-KTHS ngày 24/01/2025 của Phòng kỹ
thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Chưa có đủ căn cứ xác
định chữ ký và chữ viết trên “Tờ cho mướn đất thổ cư” và mẫu chữ ký của cụ Lê
Văn Bằng có phải do cùng một người viết, ký ra.
Xét nội dung “Tờ cho mướn đất thổ cư” thể hiện bên cho mướn đất là cụ
Nguyễn Thị Le, bên mướn đất là cụ Lê Văn Bằng và cụ Phạm Thị Phường, diện
tích đất mướn ngang 7m dài 15m, thời hạn cho mướn đất là 20 năm kể từ năm 1975
đến hết năm 1995 là thời hạn mãn giao kèo, với số tiền mướn là 20.000đ; địa điểm
xác lập là ấp Long Hòa I, xã Long Điền A, huyện Chợ Mới. Nguyên đơn ông Ngào
khai hai bên lập tờ mướn đất vào năm 1975. Tuy nhiên, thời điểm năm 1975 thì
huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang không có xã Long Điền A và đến ngày 25 tháng 4
năm 1979, Hội đồng Chính phủ mới ban hành Quyết định số: 181-CP về việc điều
chỉnh địa giới một số xã thuộc huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang như sau: Tách các
ấp Phú Hạ 1, Phú Hạ 2, Kiến Quới 1, Kiến Quới 2, Kiến Thuận 1, Kiến Thuận 2,
Kiến Hưng 1 và Kiến Hưng 2 của xã Kiến An lập thành xã Kiến Thành. Tách các
ấp Long Phú 1, Long Phú 2, Long Quới 1, Long Quới 2 của xã Long Điền lập
thành xã Long Điền B; đổi tên xã Long Điền thành xã Long Điền A.
Như vậy, chưa có đủ căn cứ để xác định cụ Bằng có ký tên mướn đất của cụ
Le theo “Tờ cho mướn đất thổ cư” lập năm 1975 do nguyên đơn ông Châu Văn
Hồng Ngào cung cấp.
[4] Xét yêu cầu của ông Hùng yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất được Ủy ban nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp cho ông Châu Văn
Hồng Ngào ngày 10/8/2000 đối với diện tích 800m
2
thửa đất số 151, tờ bản đồ số 6
tọa lạc tại ấp Long Điền 1, xã Long Điền A, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, Hội
đồng xét xử nhận thấy:
8
Tại hồ sơ xin đăng ký cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Ngào
thể hiện: Đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất không ghi ngày tháng năm và tại mục
1. Chủ sử dụng đất Châu Văn Hồng Ngào xin đăng ký quyền sử dụng đất diện tích
1003m
2
, khai nguồn gốc sử dụng đất “do bà Nguyễn Thị Le cho năm 1990”; hồ sơ
kỹ thuật khu đất ghi tên chủ sử dụng đất Châu Văn Hồng Ngào thể hiện là đất trống
không có vật kiến trúc trên đất; Tại Biên bản xác định ranh giới – mốc giới thửa đất
(theo hiện trạng sử dụng) ghi tháng 9 năm 1999 cũng thể hiện là đất trống.
Trong khi tại Bản trích đo hiện trạng khu đất do Văn phòng đăng ký đất đai
chi nhánh huyện Chợ Mới đo vẽ ngày 22/02/2024 xác định có căn nhà của gia đình
ông Hùng được xây cất từ năm 1975 và các công trình trụ trên đất với tổng diện
tích 175,2m
2
và nguyên đơn ông Ngào cũng thừa nhận gia đình ông Hùng đã cất
nhà ở trên đất từ năm 1975.
Như vậy, có cơ sở xác định Ủy ban nhân dân huyện Chợ Mới cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số 02922QSDĐ/pB ngày 10/8/2000 cho ông Châu Văn
Hồng Ngào đối với thửa đất số 151, tờ bản đồ số 6 diện tích 800m
2
tọa lạc tại ấp
Long Điền 1, xã Long Điền A, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang là chưa đúng trình
tự, thủ tục và đối tượng sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
Do đó, Bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của ông Hùng, tuyên hủy Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số 02922QSDĐ/pB do Ủy ban nhân dân huyện Chợ
Mới, tỉnh An Giang cấp ngày 10/8/2000 cho ông Châu Văn Hồng Ngào, diện tích
đất 800m
2
, thửa đất số 151, tờ bản đồ số 6, tọa lạc ấp Long Hòa 1, xã Long Điền A,
huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[5] Xét thấy trên thửa đất số 151, tờ bản đồ số 6 toạ lạc tại ấp Long Điền 1, xã
Long Điền A, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, ông Hùng đang quản lý sử dụng
diện tích 175,2m
2
, trên đất có căn nhà do gia đình ông Hùng xây dựng từ năm
1974 ngang 7m dài 15m. Trong quá trình sử dụng đất gia đình ông Hùng có sửa
chữa nhà cũng không phát sinh tranh chấp. Do đó công nhận cho ông Hùng và bà
Dứt được quyền sử dụng diện tích 105m
2
đất có gắn căn nhà thuộc thửa đất số 151,
tờ bản đồ số 6 tọa lạc tại ấp Long Hoà 1, xã Long Điền A, huyện Chợ Mới, tỉnh An
Giang là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
Đối với diện tích đất còn lại 70,2m
2
(175,2m
2
- 105m
2
) do gia đình ông Hùng
có xây cất thêm gồm nhà vệ sinh, mái che, sân để sử dụng. Bị đơn ông Hùng thừa
nhận diện tích 70,2m
2
đất thuộc quyền sử dụng của ông Châu Văn Hồng Ngào. Bản
án sơ thẩm buộc ông Hùng và bà Dứt trả lại giá trị quyền sử dụng đất cho ông Ngào
đối với phần diện tích lấn chiếm để xây dựng các công trình phụ là có căn cứ. Tuy
nhiên, Bản án sơ thẩm xác định diện tích 16,4m
2
để buộc ông Hùng, bà Dứt bồi
thường là chưa phù hợp. Nên buộc ông Hùng, bà Dứt trả lại giá trị quyền sử dụng
đất cho ông Ngào với diện tích 70,2m
2
đất là có căn cứ.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn ông Ngào
yêu cầu ông Hùng và bà Dứt bồi thường cho ông Ngào và bà Thuý giá trị quyền sử
dụng đất với tổng số tiền là 130.000.000 đồng. Còn bị đơn ông Hùng và bà Dứt chỉ
đồng ý trả giá trị đất theo Bản án sơ thẩm đã xử.
Xét giá đất được tính Theo Chứng thư thẩm định giá ngày 02/4/2024 của
Công ty Thẩm định giá Đất Việt đã xác định giá đất tại vị trí tranh chấp có giá
9
1.299.000đ/m
2
. Vì vậy, buộc ông Hùng, bà Dứt có trách nhiệm trả giá trị đất cho
ông Ngào đối với diện tích 70,2m
2
x 1.299.000 đồng/m
2
= 91.189.800 đồng là có
căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.
Do đó, chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Châu Văn
Hồng Ngào, bà Nguyễn Thị Thanh Thúy, sửa án sơ thẩm: Chấp nhận một phần yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Ngào và bà Thúy: Buộc ông Lê Văn Hùng, bà
Nguyễn Thị Út Dứt có nghĩa vụ bồi hoàn giá trị đất cho ông Châu Văn Hồng Ngào,
bà Nguyễn Thị Thanh Thúy số tiền 91.189.800 đồng. Công nhận cho ông Lê Văn
Hùng, bà Nguyễn Thị Út Dứt được quyền sử dụng phần đất diện tích 175,2m
2
tại
các điểm 3, 4, 12, 11, 3 tọa lạc ấp Long Hòa 1, xã Long Điền A, huyện Chợ Mới,
tỉnh An Giang theo Bản trích đo hiện trạng khu đất do Văn phòng đăng ký đất đai
chi nhánh Chợ Mới đo vẽ ngày 22/02/2024. Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Lê
Văn Hùng, bà Nguyễn Thị Út Dứt: Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
02922QSDĐ/pB do Ủy ban nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp ngày
10/8/2000 cho ông Châu Văn Hồng Ngào, diện tích đất 800m
2
, thửa đất số 151, tờ
bản đồ số 6, tọa lạc ấp Long Hòa 1, xã Long Điền A, huyện Chợ Mới, tỉnh An
Giang; Ông Lê Văn Hùng, bà Nguyễn Thị Út Dứt, ông Châu Văn Hồng Ngào, bà
Nguyễn Thị Thanh Thúy có trách nhiệm kê khai đăng ký cấp quyền sử dụng đất
theo quy định của pháp luật.
Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ
Chí Minh đề nghị chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn sửa một phần
bản án sơ thẩm là có căn cứ, phù hợp với nhận định trên.
[6] Về án phí và chi phí tố tụng: Do sửa án sơ thẩm nên án phí sơ thẩm và chi
phí tố tụng được xác định lại:
- Ông Ngào và bà Thuý phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu phản
tố của ông Hùng được chấp nhận. Ông Hùng và bà Dứt phải chịu án phí dân sự sơ
thẩm đối với phần yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận. Ông Châu Văn Hồng
Ngào và bà Nguyễn Thị Thanh Thúy không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo
quy định tại khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Về chi phí tố tụng: Gồm chi phí đo đạc, thẩm định, định giá, giám định với
tổng số tiền 13.030.300 đồng (Trong đó chi phí đo đạc, thẩm định, định giá
8.030.300 đồng và chi phí giám định chữ ký (tại cấp phúc thẩm) với số tiền là
5.000.000 đồng). Nguyên đơn ông Ngào và bà Thuý phải chịu 50% chi phí tố tụng
là 6.515.150 đồng làm tròn 6.515.000 đồng; bị đơn ông Hùng, bà Dứt phải chịu
50% chi phí tố tụng là 6.515.150 đồng làm tròn 6.515.000 đồng theo quy định tại
các Điều 157, 161, 165 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[7] Quyết định khác của Bản án sơ thẩm về lãi suất chậm thi hành án không có
kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng
cáo, kháng nghị.
Vì những lẽ trên;
10
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều
29 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và
lệ phí Tòa án.
- Chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn Châu Văn Hồng Ngào và bà
Nguyễn Thị Thanh Thúy.
2. Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số: 84/2024/DS-ST ngày 26/6/2024 của Tòa án
nhân dân tỉnh An Giang:
Căn cứ vào khoản 2 khoản 9 Điều 26, Điều 34, Điều 147, Điều 157, Điều 165,
Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 106; 203 Luật Đất đai năm 2013;
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí,
lệ phí Tòa án.
2.1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Châu Văn Hồng
Ngào và bà Nguyễn Thị Thanh Thúy:
- Buộc ông Lê Văn Hùng, bà Nguyễn Thị Út Dứt có nghĩa vụ bồi hoàn giá trị
đất cho ông Châu Văn Hồng Ngào, bà Nguyễn Thị Thanh Thúy số tiền 91.189.800
đồng (chín mươi mốt triệu một trăm tám mươi chín ngàn tám trăm đồng).
- Công nhận cho ông Lê Văn Hùng, bà Nguyễn Thị Út Dứt được quyền sử
dụng phần đất diện tích 175,2m
2
tại các điểm 3, 4, 12, 11, 3 tọa lạc ấp Long Hòa 1,
xã Long Điền A, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang theo Bản trích đo hiện trạng khu
đất do Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh Chợ Mới đo vẽ ngày 22/02/2024.
(Kèm theo bản trích đo hiện trạng khu đất tranh chấp của Văn phòng đăng ký
đất đai chi nhánh Chợ Mới lập ngày 22/02/2024)
2.2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Lê Văn Hùng, bà Nguyễn Thị Út Dứt:
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 02922QSDĐ/pB do Ủy ban
nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp ngày 10/8/2000 cho ông Châu Văn
Hồng Ngào, diện tích đất 800m
2
, thửa đất số 151, tờ bản đồ số 6, tọa lạc ấp Long
Hòa 1, xã Long Điền A, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.
- Ông Lê Văn Hùng, bà Nguyễn Thị Út Dứt, ông Châu Văn Hồng Ngào, bà
Nguyễn Thị Thanh Thúy có trách nhiệm kê khai đăng ký cấp quyền sử dụng đất
theo quy định của pháp luật.
3. Về chi phí tố tụng:
- Ông Châu Văn Hồng Ngào phải nộp 6.515.000 đồng (sáu triệu năm trăm
mười lăm ngàn đồng) chi phí tố tụng. Được khấu trừ vào số tiền do ông Châu Văn
Hồng Ngào đã nộp tạm ứng chi phí tố tụng tại cấp sơ thẩm 8.030.300 đồng (tám
triệu không trăm ba mươi ngàn ba trăm đồng) nên được khấu trừ xong.
- Ông Lê Văn Hùng và bà Nguyễn Thị Út Dứt phải nộp 6.515.000 đồng (sáu
triệu năm trăm mười lăm ngàn đồng) chi phí tố tụng. Được khấu trừ vào số tiền do
ông Lê Văn Hùng đã nộp tạm ứng 5.000.000 đồng nên được khấu trừ. Ông Hùng
11
và bà Dứt còn phải nộp 1.515.300 đồng, làm tròn là 1.515.000 đồng (một triệu năm
trăm mười lăm ngàn đồng) để hoàn trả lại cho ông Châu Văn Hồng Ngào.
4. Về án phí: Ông Châu Văn Hồng Ngào và bà Nguyễn Thị Thanh Thúy phải
nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Được trừ vào số tiền
300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) nộp tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm theo biên lai
số 0013132 ngày 29/12/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh
An Giang. Ông Châu Văn Hồng Ngào và bà Nguyễn Thị Thanh Thúy đã nộp đủ.
Hoàn trả cho ông Châu Văn Hồng Ngào, bà Nguyễn Thị Thanh Thúy số tiền
300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) nộp tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm theo biên lai
số 0013885 ngày 20/7/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh
An Giang.
- Ông Lê Văn Hùng và bà Nguyễn Thị Út Dứt phải nộp 4.559.490 đồng (bốn
triệu năm trăm năm mươi chín ngàn bốn trăm chín mươi đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
- Ông Châu Văn Hồng Ngào và bà Nguyễn Thị Thanh Thúy không phải nộp
án phí phúc thẩm. Hoàn trả cho ông Châu Văn Hồng Ngào và bà Nguyễn Thị
Thanh Thúy số tiền 600.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm theo
biên lai thu số 0000366, 0000367 ngày 11/7/2024 tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh
An Giang.
5. Quyết định khác của Bản án sơ thẩm về lãi suất chậm thi hành án không có
kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng
cáo, kháng nghị.
6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân
sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án; quyền yêu cầu
thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại
các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm
2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành
án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
7. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 17/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 12/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 07/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 23/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 22/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 28/06/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 11/06/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 07/06/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 09/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 06/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 26/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 15/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 11/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 25/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm