Bản án số 22/2024/HS-ST ngày 22/03/2024 của TAND huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 22/2024/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 22/2024/HS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 22/2024/HS-ST ngày 22/03/2024 của TAND huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy |
|---|---|
| Tội danh: | 197.Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (Bộ luật hình sự năm 1999) |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND huyện Đại Lộc (TAND tỉnh Quảng Nam) |
| Số hiệu: | 22/2024/HS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 22/03/2024 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN D Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH QUẢNG NAM
Bản án số: 22/2024/HS-ST
Ngày: 22/3/2024
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN D, TỈNH QUẢNG NAM
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán- Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Tự Soái.
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Trần Thị Thúy Nga;
Ông Nguyễn Trƣờng Sơn.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thanh Thảo- Thư ký Tòa án nhân dân
huyện D.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện D tham gia phiên toà: Bà Lƣơng
Thị Sinh- Kiểm sát viên.
Ngày 01 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Quảng
Nam tiến hành mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:
15/2024/TLST-HS ngày 06 tháng 02 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét
xử số: 29/2024/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 3 năm 2024 đối với các bị cáo:
1. Võ T, sinh ngày 15 tháng 6 năm 1991 tại: huyện D, Quảng Nam; nơi cư
trú: thôn N, xã V, huyện D, tỉnh Quảng Nam; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Công
nhân; trình độ học vấn: 12/12; quốc tịch; Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo:
Không; con ông Võ Tr, sinh năm 1956 và bà Đào Thị Q, sinh năm 1958; vợ
Nguyễn Thị Ngọc D, sinh năm 1996; bị cáo có 01 con sinh năm 2020; tiền án, tiền
sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 31/7/2023 đến nay tại Trại tạm giam Công an
tỉnh Quảng Nam; có mặt tại phiên tòa.
2. Đào Duy M, sinh ngày 06 tháng 10 năm 1999 tại: huyện D, tỉnh Quảng
Nam; nơi cư trú: thôn N, xã V, huyện D, tỉnh Quảng Nam; giới tính: Nam; nghề
nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ học vấn: 9/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc:
Kinh; tôn giáo: Không; con ông Đào Duy C (đã chết) và con bà Lê Thị H, sinh
năm 1976; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 31/7/2023 đến nay tại Trại tạm giam Công an
tỉnh Quảng Nam; có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Ông Trần Ngọc Tr, sinh năm 1995; trú tại: thôn N, xã V, huyện D, tỉnh
Quảng Nam; có mặt.
2. Ông Trần Ngọc Th, sinh năm 1989; hộ khẩu thường trứ: thôn N, xã V,
huyện D, tỉnh Quảng Nam; chỗ ở hiện nay: thôn Đ, xã T, huyện D, tỉnh Quảng
Nam; có mặt.
3. Ông Huỳnh Tất L, sinh năm 1966; trú tại: thôn N, xã C, huyện H, thành
phố Đà Nẵng; vắng mặt.
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 20 giờ ngày 18/3/2023, Đào Duy M cùng Trần Ngọc Tr đến nhà
Trần Ngọc Th , Đào Duy M (sinh năm 1995; trú tại: thôn N, xã V, huyện D) và Võ
T cùng nhậu tại nhà Th. Trong lúc nhậu, S nói với M, Tr, T: “Chơi tí cho vui”, có
nghĩa là “Sử dụng ma tuý cho vui”. Cả nhóm đồng ý. Tại đây, S nói có 300.000
đồng để mua ma tuý, S điện thoại cho một người thanh niên không rõ lai lịch nói về
việc mua ma tuý. Sau đó, S đưa cho T 300.000 đồng và nói M lấy xe chở T đi lấy
ma túy, thì M, T đồng ý. M điều khiển xe Execiter màu đen, biển kiểm soát 92F1-
246.35 chở T đến Ngã ba Nam Phước (gần ngân hàng Vietcombank Nam Phước)
thì gặp một người thanh niên (không rõ lai lịch) đưa gói ma túy "đá" được bọc băng
keo màu đen cho T, T đưa người thanh niên bán ma túy 300.000 đồng rồi M điều
khiển xe chở T về khu vực chợ B thuộc thôn N, xã V, huyện D. Còn S điều khiển
xe mô tô BKS 59P1- 671.09 chở Tr đến khu vực chợ B, S lấy bộ dụng cụ sử dụng
ma tuý trong cốp xe để sẵn dưới đường bê tông ngồi chờ M và T đem ma túy về sử
dụng. Khi M và T đem ma tuý đến, thì T để gói ma túy "đá" để xuống đường bê
tông, S lấy ma tuý "đá" trên đổ vào nỏ thuỷ tinh và dùng bật lửa hơ nóng rồi cả bốn
người tự lấy sử dụng. Đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, khi cả nhóm đang sử
dụng ma túy thì bị tổ tuần tra Công an xã V phát hiện, thì S, M, Tr và T bỏ chạy để
02 xe mô tô lại hiện trường. Đến ngày 19/3/2023, Công an xã V mời M, Tr và T
đến làm việc. Tại đây, M và T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Còn
S, khoảng 17 giờ cùng ngày, người dân phát hiện S chết đuối nước tại sông B.
* Tại Bản kết luận giám định số: 541/KL-KTHS ngày 31 tháng 3 năm 2023
của Phân viện KHHS tại TP Đà Nẵng kết luận:
- Chất lỏng trong suốt chứa trong chai nước nhựa trong suốt bên ngoài có
dòng chữ màu xanh da trời “Number” và số “1” màu đỏ có tìm thấy chất ma túy
Methamphetamine; thể tích mẫu là 300ml; nồng độ Methamphetamine trong mẫu là
0,01mg/ml; khối lượng chất ma túy Methamphetamine trong 300ml là 03mg
(0,003gam).
- Chất bám dính bên trong nỏ thủy tinh (nêu ở mục 1.2) là ma túy, loại
Methamphetamine; lượng chất bám dính rất nhỏ nên không xác định được khối
lượng.
- Trong chất lỏng màu vàng (nước tiểu) ghi thu của Đào Duy M (nêu ở mục
1.3), Trần Ngọc Tr (nêu ở mục 1.4) và Võ T (nêu ở mục 1.6) đều có tìm thấy chất
ma túy Methamphetamine.
- Trong chất lỏng màu đỏ (mẫu máu) ghi thu của tử thi Đào Duy S có tìm
thấy cồn (Ethanol); nồng độ Ethanol là 86miligam/100mililít và có tìm thấy chất
ma túy Methamphetamine.
Bản Cáo trạng số: 24/CT-VKSDX-HS ngày 01/02/2024 của Viện kiểm sát
nhân dân huyện D đã truy tố các bị cáo Võ T và Đào Duy M về tội “Tổ chức sử
dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 của Bộ luật
Hình sự.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố Nhà nước giữ nguyên
quan điểm truy tố các bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo
trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố các bị cáo Võ T và Đào Duy M phạm tội “Tổ chức sử dụng trái
phép chất ma túy”.
3
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều
38 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Võ T 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù và bị cáo Đào Duy M
07 năm đến 07 năm 06 tháng tù.
Các bị cáo không tự bào chữa và đều đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm
nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khai báo phù hợp với lời khai
của các bị cáo và nội dung vụ án nêu trên.
Tại lời nói sau cùng, các bị cáo nhận thức được hành vi của bị cáo là vi
phạm pháp luật và mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an
huyện D, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện D, Kiểm sát viên trong quá
trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo
đã khai báo và xuất trình các tài liệu chứng cứ phù hợp với quy định pháp luật và
không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2] Về hành vi, căn cứ buộc tội các bị cáo: Xét lời nhận tội của các bị cáo Võ
T và Đào Duy M tại phiên tòa phù hợp với lời khai những người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan; biên bản làm việc do Công an xã V lập hồi 21 giờ 30 phút ngày
18/3/2023; bản kết luận giám định số: 541/KL-KTHS ngày 31/3/2023 của Phân
viện Khoa hoa hình sự tại thành phố Đà Nẵng; vật chứng thu giữ cùng với các tài
liệu, chứng cứ khác được Cơ quan điều tra chứng minh có tại hồ sơ vụ án và đã
được thẩm tra tại phiên toà. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng
20 giờ ngày 18/3/2023, các bị cáo Võ T và Đào Duy M mua ma túy đem đến khu
vực chợ B thuộc thôn N, xã V, huyện Duy X thực hiện hành vi tổ chức cho nhiều
người sử dụng trái phép chất ma túy, loại Methamphetamine thì bị kiểm tra phát
hiện.
Vì vậy, hành vi và hậu quả nêu trên của các bị cáo Võ T và Đào Duy N đã
phạm vào tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b
khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) như
Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện D truy tố các bị cáo T và M là có căn
cứ, đúng pháp luật.
[3] Các bị cáo Võ T và Đào Duy M có đầy đủ năng lực nhận thức và điều
khiển hành vi. Các bị cáo biết rằng chất ma túy là một chất gây nghiện có hại cho
sức khỏe con người, là nguyên nhân gây ra những hậu quả khó lường cho xã hội.
Do vậy, Nhà nước độc quyền quản lý, nghiêm cấm mọi hành vi tàng trữ, mua bán,
vận chuyển, sử dụng trái phép chất ma túy nhưng các bị cáo bất chấp quy định
pháp luật đã thực hiện hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Hành vi mà
các bị cáo thực hiện việc phạm tội là rất nguy hiểm cho xã hội, làm mất trật tự trị
an tại địa phương, gây tâm lý bức xúc trong đời sống nhân dân nên cần được xử lý
nghiêm bằng chế tài luật hình sự.
[4] Xét tính chất, mức độ, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự và nhân thân của các bị cáo thì thấy:
4
Trong vụ án này, các bị cáo Võ T và Đào Duy M thực hiện việc phạm tội có
vai trò ngang nhau, các bị cáo trực tiếp mua ma túy và cùng nhau tổ chức sử dụng
trái phép chất ma túy. Vì vậy, theo quy định pháp luật cần phải xử phạt các bị cáo
mức án nghiêm minh tương xứng với tính chất, mức độ thực hiện việc phạm tội để
răn đe và ngăn ngừa tội phạm.
Tuy nhiên xét thấy, các bị cáo T và M không có tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự, khi phạm tội các bị cáo đều có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền
sự, lần đầu phạm tội; tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo nhận tội, thể
hiện thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo T có cha ruột Võ
Tr được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến sĩ vẻ vang, ông nội Võ C được
tặng Huân chương kháng chiến hạng ba, bản thân bị cáo T đã hoàn thành nghĩa vụ
quân sự; bị cáo M có hoàn cảnh gia đình khó khăn xác nhận của chính quyền địa
phương là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều
51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hội đồng xét xử sẽ
xem xét tất cả các tình tiết này để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo T và
M khi lượng hình.
[5] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
tiêu hủy 01 ống thủy tinh, 01 võ chai nhựa trong suốt bên trong có dòng chữ màu
xanh da trời “Number” và số “1” màu đỏ, nắp nhựa màu trắng và toàn bộ vỏ bao
gói được hoàn lại trong niêm phong số: 541/KL-KTHS ngày 31/3/2023 của Phân
viện khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng (mẫu vật hoàn trả sau giám định đã
được niêm phong).
Tang vật của vụ án 01 nắp nhựa màu vàng có đục 02 lỗ; 01 ống hút nhựa
màu trắng; 01 bật lửa màu đỏ; 01 nút bật màu đen, đuôi có gắn khúc kim loại hình
trụ màu vàng nhạt, trên thên có dây nhựa mà đỏ, lõi bằng kim loại; 01 hộp màu tím
bên trong có 03 cây tăm bông; 01 ống nhựa và 01 lưỡi lam không có giá trị sử dụng
nên Hội đồng xét thấy cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại Điều 47 của Bộ luật
Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015 là phù hợp quy định pháp luật.
Tang vật của vụ án là 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Exciter, màu sơn trắng đỏ,
BKS 92F1-246.35, số máy G3D4E127242, số khung RLCUG0610Y114625 (thuộc
sở hữu của bị cáo Đào Duy M) mà bị cáo M sử dụng làm phương tiện phạm tội nên
Hội đồng xét xử xét thấy cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước theo quy định tại
Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tang vật thu giữ là 01 điện thoại Iphone 11 pro max màu đen, số Imei
353888104472395 có gắn thẻ sim 0708.241.934 của bị cáo Đào Duy M, 01 điện
thoại Oppo màu đen (đã vỡ nát mặt kính màn hình) của bị cáo Võ T và 01 điện
thoại iphone 11 màu đen, số Imei 352900110391427 có gắn thẻ sim 0969.600.811
của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Ngọc Tr. Hội đồng xét xử xét thấy
là tài sản cá nhân không sử dụng làm phương tiện phạm tội nên hoàn trả lại cho các
bị cáo Đào Duy M, Võ T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Ngọc Tr
là phù hợp.
Đối với xe mô tô hiệu Airblade màu đen, BKS 59P1- 671.09, Cơ quan điều
tra Công an huyện D đã chuyển Cơ quan điều tra Công an huyện H, thành phố Đà
Nẵng để điều tra theo thẩm quyền nên không xem xét.
[6] Về vấn đề liên quan đến vụ án: Đối với người thanh niên không rõ lai
lịch, người bán ma túy cho các bị cáo Võ T và Đào Duy M, Cơ quan điều tra chưa
xác định được lai lịch cụ thể của người này nên tiếp tục xác minh, điều tra xử lý
sau.
5
Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Trần Ngọc Tr, Công an
huyện D đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp.
Đối với Đào Duy S (sinh năm 1995, trú tại: thôn N, xã V, huyện D, tỉnh
Quảng Nam) có hành vi đồng phạm với các bị cáo Võ T và Đào Duy M về tội “Tổ
chức sử dụng trái phép chất ma túy” nhưng đã chết nên không truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với Đào Duy S.
Đối với Trần Ngọc Th không biết Võ T, Đào Duy M, Trần Ngọc Tr và Đào
Duy S tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy nên không xem xét xử lý là phù hợp.
Đối với xe mô tô hiệu Airblade màu đen, BKS 59P1- 67109 thu giữ của
Đào Duy S (đã chết); quá trình điều tra xác định do ông Huỳnh Tất L (sinh năm
1966; trú tại: thôn N, xã C, huyện H, thành phố Đà Nẵng) đứng tên chủ sở hữu nên
Cơ quan điều tra Công an huyện D đã chuyển Cơ quan điều tra Công an huyện H,
thành phố Đà Nẵng để điều tra theo thẩm quyền.
[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định
của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Về trách nhiệm hình sự: Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản
1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017).
- Tuyên bố các bị cáo Võ T và Đào Duy M phạm tội “Tổ chức sử dụng trái
phép chất ma tuý”.
+ Xử phạt: Bị cáo Võ T 07 (Bảy) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù
được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam là ngày 31/7/2023.
Tiếp tục tạm giam bị cáo Võ T thời hạn 45 (Bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày
tuyên án sơ thẩm (22/3/2024) để đảm bảo cho việc thi hành án.
+ Xử phạt: Bị cáo Đào Duy M 07 (Bảy) năm tù; thời hạn chấp hành hình
phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam là ngày 31/7/2023.
Tiếp tục tạm giam bị cáo Đào Duy M thời hạn 45 (Bốn mươi lăm) ngày, kể
từ ngày tuyên án sơ thẩm (22/3/2024) để đảm bảo cho việc thi hành án.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
- Tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) ống thủy tinh, 01 (Một) võ chai nhựa
trong suốt bên trong có dòng chữ màu xanh da trời “Number” và số “1” màu đỏ,
nắp nhựa màu trắng và toàn bộ vỏ bao gói được hoàn lại trong niêm phong số:
541/KL-KTHS ngày 31/3/2023 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đà
Nẵng (mẫu vật hoàn trả sau giám định đã được niêm phong); 01 (Một) nắp nhựa
màu vàng có đục 02 lỗ; 01 (Một) ống hút nhựa màu trắng; 01 (Một) bật lửa màu
đỏ; 01 (Một) nút bật màu đen, đuôi có gắn khúc kim loại hình trụ màu vàng nhạt,
trên thên có dây nhựa mà đỏ, lõi bằng kim loại; 01 (Một) hộp màu tím bên trong có
03 cây tăm bông; 01 (Một) ống nhựa và 01 (Một) lưỡi lam.
- Tuyên tịch thu sung công Nhà nước: 01 (Một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu
Exciter, màu sơn trắng đỏ, BKS 92F1-246.35, số máy G3D4E127242, số khung
RLCUG0610Y114625 (thuộc sở hữu của bị cáo Đào Duy M).
- Tuyên hoàn trả lại: 01 (Một) điện thoại Iphone 11 pro max màu đen, số
Imei 353888104472395 có gắn thẻ sim 0708.241.934 cho bị cáo Đào Duy M, 01
(Một) điện thoại Oppo màu đen (đã vỡ nát mặt kính màn hình) cho bị cáo Võ T và
01 (Một) điện thoại iphone 11 màu đen, số Imei 352900110391427 có gắn thẻ sim
0969.600.811 ông Trần Ngọc Tr.
6
(Các vật chứng trên hiện đang được quản lý tại Chi cục Thi hành án dân sự
huyện D theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 18/3/2024).
3. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Các bị cáo Võ T và Đào Duy M mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai
trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Các bị cáo, người có quyền, nghĩa vụ liên quan có quyền làm đơn kháng
cáo gửi lên Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam để xin xét xử phúc thẩm trong hạn
15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 01/02/2024). Riêng những người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời
hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hoặc từ ngày niêm yết bản sao bản án sơ thẩm.
5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- Người tham gia tố tụng; Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
- Các cơ quan tiến hành tố tụng;
- Chi cục THADS huyện Duy Xuyên;
- Vụ Giám đốc kiểm tra I);
- Lưu hồ sơ vụ án.
Lê Tự Soái
7
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 14/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 20/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 17/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 11/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 05/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 29/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 25/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 22/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 07/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 05/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 30/11/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 30/11/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 29/11/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 29/11/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 27/11/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 23/11/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 10/11/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 30/09/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 26/09/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm