Bản án số 212/2023/HS-PT ngày 07-12-2023 của TAND TP. Đà Nẵng về về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
  • 212_2023_HS-PT_ DA NANG

    Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

  • 212_2023_HS-PT_ DA NANG

    Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 212/2023/HS-PT

Tên Bản án: Bản án số 212/2023/HS-PT ngày 07-12-2023 của TAND TP. Đà Nẵng về về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
Tội danh: 197.Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Đà Nẵng
Số hiệu: 212/2023/HS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 07/12/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Thái Quỳnh N sử dụng trái phép chất ma túy
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 212/2023/ HS-PT
Ngày: 07/12/2023
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
A ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Ông Trần Minh Long
Các thẩm phán: Trần Thị Bé
Ông Phan Vĩnh Chuyển
- Thư ký phiên tòa: Ông Vũ Tùng Lâm - Thư ký TAND TP Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng tham gia phiên tòa:
Nguyễn Thị Bạch Tuyết - Kiểm sát viên.
Ngày 07 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân n thành phố Đà Nẵng xét
xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 207/2023/TLPT-HS ngày 10
tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo Thái Quỳnh N do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản
án hình sự thẩm số 112/2023/HS-ST ngày 30 tháng 09 năm 2023 của Tòa án nhân
dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.
Bị cáo kháng cáo: Thái Quỳnh N (Tên gọi khác: Không), sinh ngày 04 tháng
06 năm 1997, tại B; Nơi ĐKNTTT: Đội 2, thôn T, thị trấn T, huyện T, tỉnh B; Nơi
trú: 30 A, phường B, quận N; Nghề nghiệp: LĐPT; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc:
Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Thái Văn T1
(sinh năm 1976) Nguyễn Thị T2 (sinh năm 1971); Tiền án, tiền sự: Không; Nhân
thân: Ngày 19/06/2023 bị Công an quận Sơn Trà, thành phĐà Nẵng xử phạt vi phạm
hành chính về hành vi Sử dụng trái phép chất ma y với hình thức phạt tiền 1.500.000
đồng. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 13/3/2023 đến ngày 17/3/2023; hiện đang chấp hành
biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.
Ngoài ra, trong vụ án còn có các bị cáo Phan Thành L, Nguyễn Kế H, Thái Quỳnh
D, Quang A Đặng Đỗng K nhưng các bị cáo này không kháng cáo không bị
kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
ơ
Theo các tài liệu trong hồ ván diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án
được tóm tắt như sau:
2
Vào lúc 08 giờ, ngày 13/3/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Sơn Trà,
thành phố Đà Nẵng tiến hành kiểm tra phòng 602 khách sạn Santori (đường Trần Hưng
Đ, phường A, quận S, thành phố Đ) phát hiện Phan Thành L, Thái Quỳnh D, Thái
Quỳnh N, Nguyễn Kế H Đặng Đỗng K biểu hiện sdụng trái phép chất ma túy.
quan Cảnh sát điều tra Công an quận Sơn Trà tiếp tục tiến hành kiểm tra phòng 602,
phát hiện trong giỏ nhựa màu vàng phòng ngủ 01 gói ni ng kích thước (04 x 08)
cm chứa 02 mảnh viên nén màu xanh, ở hộc tủ dưới bồn rửa mặt trong nhà vệ sinh có 01
đĩa sứ màu trắng, hình tròn trên đĩa 01 gói ni lông kích thước (04 x 04) cm bên trong
chứa chất tinh thể rắn màu trắng, 01 gói ni lông kích thước (04 x 04) cm bên trong chứa
chất tinh thể rắn màu trắng, 01 thẻ nhựa hình chữ nhật; 01 ống hút cuốn từ tờ tiền
polyme mệnh giá 10.000 đồng chất bột màu trắng còn sót lại trên đĩa, nên lực lượng
Công an đã tiến hành thu gom vào một gói ni lông kích thước khoảng (04 x 04) cm.
Tang vật, tài sản tạm giữ
- 01 gói ni lông kích thước (04 x 08) cm chứa 02 mảnh viên nén màu xanh (nghi là
ma túy tổng hợp dạng thuốc lắc); 01 gói ni lông kích thước (04 x 04) cm bên trong chứa
chất tinh thể rắn màu trắng nghi là ma túy loại Ketamine; 01 gói ni lông kích thước (04 x
04) cm bên trong chứa chất tinh thể rắn màu trắng nghi ma túy loại Ketamine; 01 gói
ni lông kích thước khoảng (04 x 04) bên trong chứa chất tinh thể rắn màu trắng được thu
gom từ đĩa sứ nghi là ma túy (tất cả đã được niêm phong và ký hiệu là L1);
- 01 đĩa sứ màu trắng, hình tròn; 01 thẻ nhựa hình chnhật, 01 ống hút quấn từ tờ
tiền polyme mệnh giá 10.000đồng (tất cả đã được niêm phong và ký hiệu là L2);
- 01 loa hiệu Masstel, 01 bộ đèn nhựa màu đen;
- 01 ĐTDĐ hiệu Iphone màu tím, IMEI1: 351651520290xxx, sim số: 0795245xxx;
(của L dùng để liên hệ mua ma túy), 01 căn cước công dân mang tên Phan Thành L;
- 01 ĐTDĐ hiệu Iphone 14 Pro max màu tím, IMEI: 35063627656xxx, sim số:
0905430xxx (của D dùng để liên hệ với L đặt xe đi sử dụng ma túy), 01 căn cước
công dân mang tên Thái Quỳnh D, 2.000.000 đồng là tiền H góp cho L để mua ma túy;
- 01 ĐTDĐ hiệu Iphone 12 Pro max màu vàng, IMEI: 356718110859xxx, sim số:
0898199xxx (của N);
- 01 ĐTDĐ hiệu Iphone Xsmax màu đen, IMEI1: 357271094761xxx, IMEI2:
357271094439xxx, sim số: 0865165xxx (của H dùng để liên hvới L đi sử dụng ma
túy), 01 căn cước công dân mang tên Nguyễn Kế H;
- 01 ví nữ bằng vải màu vàng đen, kích thước 10x20 cm, bên ngoài có chữ D”, bên
trong 2.175.000 đồng; 01 ĐTDĐ hiệu Iphone8 Plus, màu trắng, IMEI:
35608683366xxx, sim số: 0868971xxx(của K), 01 căn cước công dân mang tên Đặng
Đỗng K.
3
Trên sở lời khai của các bị can, quan Cảnh sát điều tra Công an quận Sơn
Trà đã mời Võ Quang A, Nguyễn Văn S và Đỗ Thị Mỹ T về trụ sở làm việc.
Tại kết luận giám định số: 224, ngày 17/3/2023 của Phòng KTHS ng an TP. Đà
Nẵng, kết luận: Mẫu L1 được chia ra thành mẫu L1a và mẫu L1b.
+ Chất bột tinh thể màu trắng gửi giám định hiệu L1a ma túy, loại ketamine,
khối lượng mẫu L1a là: 2,331 gam;
+ 02 mẫu viên nén màu xanh dương gửi giám định hiệu L1b ma y, loại
MDMA, khối lượng mẫu L1b là: 0,368 gam;
+ Trên đĩa sứ, thẻ nhựa, tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng hiệu L2 gửi giám định
bám dính chất ma túy, loại ketamine.
Qua điều tra xác định:
Vào khoảng 14 giờ, ngày 12/3/2023, trong lúc Phan Thành L Thái Quỳnh D
ngồi uống cà phê tại đường Ngô Thì S, TP. Đ thì L rủ D sử dụng ma túy, D đồng ý. Sau
đó, D vphòng trọ rủ chị gái mình Thái Quỳnh N đi sử dụng ma túy thì N đồng ý.
Còn L đến khách sạn S thuê phòng 602 để sử dụng ma túy, sau đó báo lại cho D biết địa
chỉ. D và N đón xe Grap đến khách sạn, còn L liên hệ với đối tượng tên “Trần N” (chưa
rõ lai lịch) hỏi mua 05 viên ma túy thuốc lắc và 01 hộp 5 ma túy Ketamine, thì “Trần N”
đồng ý bán với giá 6.750.000 đồng. Tiếp đó, L rủ thêm H đến cùng sử dụng ma túy, H
đồng ý. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, H dẫn bạn gái Đặng Đỗng K (ở cùng phòng)
đến cùng sử dụng ma túy. Tại phòng 602, H góp cho L 2.000.000 đồng mua ma túy về
sử dụng chung. Sau khi mua được ma túy (đối tượng chưa rõ mang đến và L ra nhận), L
lên mạng hội thuê đèn của một người chưa lai lịch lấy loa khách sạn đnghe
nhạc, D lấy điện thoại di động của mình mở nhạc cho cả nhóm nghe và sử dụng ma túy.
Sau đó, L để thuốc lắc giữa phòng cho cả nhóm sử dụng, H lấy đĩa sứ trong bếp
nóng, rồi N đma túy ketamin ra đĩa, L đưa cho N 01 thẻ nhựa ATM MB Bank của L
cho N để xào ma túy Ketamine. H lấy tờ tiền polymer mệnh giá 10.000 đồng từ ví của K
đưa cho K cuốn thành ống hút, K cuốn không được nên đưa lại cho L cuốn ống hút cho
cả nhóm sdụng ma túy. Cả nhóm cùng nhau sử dụng ma túy đến khoảng 02 giờ ngày
13/3/2023, L rủ gọi điện thoại hình (video call) cho Quang A rủ đến sử dụng ma túy
thì Quang A đồng ý, thấy có S và T nên L cũng rủ đến sử dụng ma túy. Sau đó, Quang A
đặt xe Grap để chở cả ba người đến khách sạn Santori. Khi nhóm Quang A đến tD
người xào ma túy Ketamine cho nhóm Quang A sử dụng, còn Quang A tự lấy 01 mẩu
viên ma túy thuốc lắc sử dụng và lấy thêm 01 mảnh thuốc lắc đưa cho S sử dụng. Sau đó
các bị can L, H, D, N, K nằm ngủ. Khoảng 05 giờ cùng ngày thì Quang A, T S ra về,
L đóng cửa và đi ngủ. Đến khoảng 06 giờ cùng ngày, D thức dậy lấy đĩa ma túy bên trên
02 gói ma túy ketamin, thẻ nhựa ống hút để vào bên trong nhà tắm để khi nào ai
dậy lấy sử dụng, tuy nhiên đến 08 giờ cùng ngày thì bị phát hiện như đã nêu trên.
4
Tiến hành test nhanh cho kết quả: L, D, N, H, K, A, T, S dương tính với ma túy.
Về tình trạng nghiện: Trung tâm Y tế phường An Hải Tây xác nhận cả L, D, N, H,
K, A, S và T đều không nghiện ma túy.
* Tại Bản án hình sự thẩm số 112/2023/HS-ST ngày 30/09/2023, Tòa án nhân
dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng đã quyết định:
Căn cđiểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 2
Điều 54; Điều 58 Bộ luật Hình sự;
Xử phạt: Bị cáo Thái Quỳnh N 04 (bốn) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép
chất ma túy”, trừ đi 5 ngày tạm giữ (từ ngày 13/3/2023 đến ngày 17/3/2023), còn phải
chấp hành hình phạt là 3 năm 11 tháng 25 ngày tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính
từ ngày bắt giam thi hành án.
Ngoài ra, Bản án thẩm còn quyết định về tội danh hình phạt đối với các bị
cáo Phan Thành L, Nguyễn Kế H, Thái Quỳnh D v2 tội “Tàng trữ trái phép chất ma
túy” và tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma y”; bị cáo Võ Quang A Đặng Đỗng
K về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”; phần xử lý vật chứng, án phí và thông
báo quyền kháng cáo.
- Ngày 13/10/2023, bị cáo Thái Quỳnh N đơn kháng cáo với nội dung: Án
thẩm xử nặng, b cáo xin được giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Bcáo Thái Quỳnh N đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình cùng đồng phạm
đúng như nội dung Bản án thẩm đã nêu kết luận, bị cáo nhận tội; giữ nguyên nội
dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng quan điểm về việc giải
quyết vụ án như sau: Tòa án cấp thẩm đã xét xử bị cáo Thái Quỳnh N cùng các đồng
phạm về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, c khoản
2 Điều 255 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Mức hình phạt 4 năm đối với
bị cáo nhẹ, dưới khung hình phạt. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng
không tình tiết giảm nhẹ o mới, nên đề nghị không chấp nhận kháng o của bị
cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh
tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Thái Quỳnh N đã khai nhận toàn bộ hành vi
phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ tại hồ
vụ án, phù hợp với kết luận của bản án thẩm. Do vậy, HĐXX sở khẳng định:
5
Bản án hình sự sơ thẩm số 112/2023/HS-ST ngày 30/09/2023 của Tòa án nhân dân quận
Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo Thái Quỳnh N cùng các đồng phạm Phan
Thành L, Nguyễn Kế H, Thái Quỳnh D, Võ Quang A và Đặng Đỗng K (tại thời điểm sử
dụng ma túy K chưa đủ 18 tuổi) v ti Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo các
tình tiết định khung “Đối với 2 người trở lên” “Đi với từ đủ 13 tuổi đến dưới 18
tuổi” quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự; riêng Võ Quang A
Đặng Đỗng K v ti “Tổ chức sdụng trái phép chất ma túy” theo tình tiết định khung
“Đối với 2 người trở lên” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự
căn cứ, đúng pháp luật, không oan.
[2] Xét nội dung kháng o xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Thái Quỳnh N,
HĐXX thấy rằng: Trong vụ án này, bị cáo N người được bị cáo Thái Quỳnh D (em
gái) rủ sử dụng ma túy; tại phòng 602 khách sạn Santori bị cáo Như đã hành vi
nghe theo sự chỉ đạo của bị cáo Phan Thành L dùng 1 thẻ nhựa ATM của L để xào và
chẻ ma túy Ketamine cho cả nhóm gồm: L, H, D, A, K 2 người thụ hưởng S T
cùng sử dụng, nên bị cáo đồng phạm tội với vai trò giúp sức như Tòa án cấp thẩm
nhận định là chính xác.
Hành vi phạm tội của bị cáo đồng phạm nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm
đến chế độ độc quyền quản của nhà nước về các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến
trật tự trị an xã hội tại địa phương, nên cần xử phạt nghiêm. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng
hình phạt thời hạn đối với bị cáo cần thiết để cải tạo giáo dục bị cáo, đồng thời
để răn đe phòng ngừa chung cho xã hội.
Xét Tòa án cấp thẩm đã đánh giá đúng vai trò phạm tội của bị cáo, đã áp dụng
đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã xét đến nhân thân, tình trạng
bệnh tật của bị cáo, xử phạt bị cáo 4 năm mức án dưới mức thấp nhất của khung
hình phạt bị truy tố, xét xử là đã cân nhắc chiếu cố cho bị cáo. Bị cáo kháng cáo
xin giảm nhẹ hình phạt, nhưng không tình tiết giảm nhẹ nào mới; tình tiết hoàn cảnh
gia đình kkhăn, lao động chính trong gia đình, đang điều trị bệnh ung thư tuyến
giáp dạng nhú đã được Tòa án cấp thẩm xem xét và áp dụng khoản 2 Điều 51 BLHS
cho bị cáo; nên HĐXX không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, cần giữ nguyên mức
hình phạt Tòa án cấp thẩm đã tuyên đối với bị cáo như đề nghị của đại diện Viện
kiểm sát là phù hợp.
[3] Các quyết định khác của Bản án thẩm không kháng cáo, kháng nghị đã
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Do không được chấp nhận kháng cáo, nên b cáo phải chịu án phí HSPT.
Vì các lẽ trên,
6
QUYẾT ĐỊNH:
I. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Thái Quỳnh N; giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
- Căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1
Điều 54; Điều 58 Bộ luật Hình sự; Xử phạt: Bị cáo Thái Quỳnh N 04 (bốn) năm tù về tội
“Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, trừ đi 5 ngày tạm gi(từ ngày 13/3/2023 đến
ngày 17/3/2023), còn phải chấp hành hình phạt 3 năm 11 tháng 25 ngày tù. Thời hạn
chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
II. Về án phí: Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội hướng dẫn về án phí, lệ phí Tòa án:
Bị cáo Thái Quỳnh N phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc
thẩm.
III. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không kháng cáo, kháng nghị đã
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND thành phố Đà Nẵng;
- Phòng HSNV CA Tp Đà Nẵng;
- Chi cục THADS quận Sơn Trà;
- VKSND quận Sơn Trà;
- CQCSĐT Công an quận Sơn Trà;
- Toà án nhân dân quận Sơn Trà;
- Vụ GĐKT I – TAND tối cao;
- Những người tham gia tố tụng;
- Trại giam Công an TP Đà Nẵng
- Lưu HS.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Minh Long
7
Các Thẩm phán
Phan Vĩnh Chuyển Trần Thị Bé
Thẩm phán – Chủ ta phiên tòa
Trần Minh Long
8
9
10
11
Tải về
212_2023_HS-PT_ DA NANG 212_2023_HS-PT_ DA NANG

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

212_2023_HS-PT_ DA NANG 212_2023_HS-PT_ DA NANG

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất