Bản án số 182/2025/DS-PT ngày 17/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 182/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 182/2025/DS-PT ngày 17/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP.HCM
Số hiệu: 182/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 17/03/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Giữ nguyên bản sơ thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 182/2025/DS-PT
Ngày 17 tháng 3 năm 2025
“Tranh chấp quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa: Bà Trần Thị Thuý Hồng
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Hồ Tâm
Bà Nguyễn Thị Ngọc Hoa
- Thư phiên tòa: Ông Nguyễn Trung Kiên - Thư Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm t nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Bà Trần Thị Huệ - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 10 ngày 17 tháng 3 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự phúc
thẩm thụ số: 943/2024/TLPT-DS ngày 02 tháng 12 năm 2024 về việc: “Tranh
chấp quyền sử dụng đất; yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; yêu cầu
hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hợp đồng thế chấp quyền
sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự thẩm số: 09/2024/DS-ST ngày 01/8/2024 của Tòa án
nhân dân tỉnh Ninh Thuận bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 340/2025/QĐPT-DS ngày
21/02/2025 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Trần Kỳ M, sinh năm 1974. Địa chỉ: Thôn N, P, huyện
T, tỉnh Ninh Thuận, có mặt.
2. Bị đơn:
2.1 Ông Hứa Tậu M1 (đã chết tháng 5/2020).
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông M1:
2.1.1 Bà Hứa Thị Mây S, sinh năm 1969, vắng mặt.
2.1.2 Bà Hứa Thị R, sinh năm 1964, vắng mặt.
2.1.3 Bà Hứa Thị Kiều X, sinh năm 1965, vắng mặt.
2.1.4 Bà Hứa Thị Kiều L, sinh năm 1968, vắng mặt.
2.1.5 Ông Hứa Ngọc H, sinh năm 1971, có mặt.
2
Cùng địa chỉ: Thôn V, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận.
2.2 Bà Hứa Thị R, sinh năm 1964, vắng mặt.
2.3 Bà Hứa Thị Kiều X, sinh năm 1965, vắng mặt.
2.4 Ông Hứa Ngọc H, sinh năm 1971, có mặt.
2.5 Ông Kiều Văn Q, sinh năm 1953, có mặt.
2.6 Ông o Đ, sinh năm 1954, vắng mặt.
2.7 Bà o Nữ Hồng L1, sinh năm 1980, vắng mặt.
Cùng địa chỉ: Thôn V, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận.
Người đại diện theo ủy quyền của các bị đơn Hứa Thị Mây S : Ông
Kiu Văn Q, sinh năm 1953. Địa chỉ: Thôn V, xã P, huyện T, tnh Ninh Thun, có mt.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của ông Kiều Văn Q : Luật
Đoàn Việt T - Công ty L3, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H, có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1 Ông Nguyễn Tấn P, sinh năm 1963, vắng mặt.
3.2 Bà Hứa Thị Kiều L, sinh năm 1968, vắng mặt.
Cùng địa chỉ: Thôn V, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận.
3.3 Ủy ban nhân dân huyện T, có văn bản xin xét xử vắng mặt.
3.4 Ông Phạm Văn M2, sinh năm 1962. Địa chỉ: Thôn V, xã P, huyện T, tỉnh
Ninh Thuận, có văn bản xin xét xử vắng mặt.
3.5 Ông Yang Ching C, sinh năm 1963. Địa chỉ: B số E, đường K, 018Lin, S,
huyện T, T, Đài Loan, vắng mặt.
3.6 Ngân hàng TMCP Đ1 - Chi nhánh N1 (Phòng G), xin xét xử vắng mặt.
4. Người có kháng cáo: Ông Hứa Ngọc H - bị đơn.
NHẬN THẤY:
- Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn Trần Kỳ M lời trình bày của người
đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn có ông Phạm Phú C1 trình bày:
Vào năm 2003 bà M nhận chuyển nhượng thửa đất số 244, 243, 243c, tờ
bản đồ số 26, diện tích 19.243m
2
tọa lạc tại khu vực G thuộc P, huyện N, tỉnh
Ninh Thuận của hộ ông Phạm Văn M2 theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất số 286/CN vào ngày 09/08/2003 tại Ủy ban nhân dân (UBND) P,
huyện N, tỉnh Ninh Thuận (nay P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận) đã được Ủy
ban nhân dân huyện N (viết tắt UBND huyện N), tỉnh Ninh Thuận cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số S 513802, số vào sổ cấp GCN số
01515/QSDĐ/1083/QĐ/4/2003 vào ngày 29/09/2003 đối với các thửa đất này.
Cuối năm 2003, ông Hứa Tậu M1 và ông Nguyễn Tấn P (con rể ông Hứa Tậu
M1) đã tự ý đỡ bỏ ranh rào phía Bắc tiếp giáp thửa đất nói trên của để chiếm
dụng. M đã thuê người đến để rào ranh lại nhưng gia đình ông Hứa Tậu M1
3
nhiều lần ngăn cản, hăm dọa. Sau đó ông gia đình ông M1 ông P đã tự ý đổ đá
xây dựng vào phần đất của đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nói
trên của bà để tiến đến việc xây dựng.
M đã gởi đơn khiếu nại yêu cầu giải quyết sự việc tranh chấp này đến
UBND xã P. Ngày 01/09/2005 và 04/06/2006 bà có gởi đơn khiếu nại về việc chậm
giải quyết tranh chấp giữa hộ gia đình ông Hứa Tậu M1. Ngày 16/08/2007
UBND P tổ chức buổi a giải giữa và hộ ông Hứa Tậu M1 nhưng không
thành. Từ đó đến nay giữa gia đình bà và hộ ông M1 cũng đã nhiều lần xảy ra xung
đột mâu thuẫn lấn chiếm đất trái phép do không sự can thiệp kịp thời của
chính quyền địa phương. Sự việc lên đến đỉnh điểm vào lúc 14 giờ 00 ngày
04/08/2019 M nhận được tin một nhóm người đưa xe máy xúc đất vào ủi san
lấp phần đất nói trên mà không được sự cho phép của bà, bà và chị là bà Trần Kỳ N
đã chạy đến để ngăn cản và đã xảy ra xô xát với gia đình ông Hứa Tậu M1.
Nay Trần KM khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết các vấn đề như sau:
Buộc các thành viên trong gia đình hộ ông Hứa Tậu M1 gồm: ông Hứa Tậu M1, bà
Hứa Thị R, bà Hứa Thị Kiều X, ông Hứa Ngọc H, ông Não Đ, ông Kiều Văn Q, bà
Não Nữ Hồng L1 phải trả lại phần đất đã chiếm, xây dựng trái pháp luật 2 căn
nhà tạm diện tích 7,7m
2
và 29,46m
2
trên thửa đất số 244, 243, 243c, tờ bản đồ số 26
được cấp giấy chứng nhận cho Trần Kỳ M. Buộc các thành viên trong gia đình
ông Hứa Tậu M1 đã nói như trên phải chấm dứt hành vi cản trở quyền sử dụng đất
của bà M đối với thửa đất số 244, 243, 243c, tờ bản đồ số 26 mà Nhà nước đã công
nhận quyền sử dụng đất số S 513802 cho bà Trần Kỳ M.
- Tại bản tự khai của các bị đơn ông Hứa Tậu M1, Hứa Thị R1, Hứa
Thị Kiều X, ông Hứa Ngọc H, ông Não Đ, ông Kiều Văn Q, Não Nữ Hồng L1,
và lời khai của ông Kiều Văn Q là đi diện theo ủy quyền của các bị đơn trình bày:
Gia đình ông Hứa Tậu M1 khai hoang một đất khoảng 10 ha vào năm
1973, tọa lạc tại G, thuộc địa bàn P, T, Ninh Thuận canh tác ổn định. Vào năm
1982, trong thời kỳ bao cấp, huyện trưng thu đất để thành lập Nông trường
Thơm tàu đào, đến năm 1993 Nông trường Thơm tàu đào giải thể, giao lại cho Ban
Lâm nghiệp huyện N nhưng Ban Lâm nghiệp huyện, UBND xã P không triển khai
thực hiện mà chỉ trả lại một phần diện tích, tự ý chia đất cho người thân quen.
Gia đình thì ông M1 làm đơn khiếu nại lên Ban Lâm nghiệp huyện đã
được giải quyết 4/5 đất hiện nay con Nguyễn Tấn P đã làm sổ đỏ, còn lại hơn
1 ha ông Phạm M2 đã trồng cây xin thỏa thuận với gia đình ông M1 rằng: Sau
khi thu hoạch cây sẽ giao đất lại cho gia đình ông M1. Trong quá trình trồng cây
ông Phạm M2 đã lợi dụng chức năng, quyền hạn của mình cán bộ địa chính
am hiểu về thủ tục hành chính và quy trình để làm sổ đỏ và hợp thức hóa lô đất của
gia đình ông M1 thành lô đt ca cnh mình đem n và làm sđ cho bà Trần KM.
Từ năm 1995 ông M1 đã nhiều lần làm đơn khiếu nại, khiếu tố gửi cho các
cấp xã, huyện tỉnh để giải quyết. Mãi đến ngày 08/12/2010 UBND P đã mời
02 hộ (Hứa Tậu M1 Trần Kỳ M) để hòa giải nhưng không thành. Sau đó vào
ngày 09/12/2010, UBND chuyển toàn bộ hồ lên Tòa án nhân dân huyện
Thuận Nam để giải quyết theo thẩm quyền diện tích đất tranh chấp đã được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Trần Kỳ M. Trong thời gian chờ đợi sự
4
giải quyết của Tòa án, gia đình chúng tôi xây nhà chòi đgiữ đất cho đến nay, nhà
diện tích 7,71m
2
trên thửa 243 là do ông M1 xây dựng.
Ngày 27/3/2003, UBND huyện N cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối
với các thửa đất số 244, 243 với tổng diện tích 19.293m
2
(trong đó công nhận ông
Phạm Văn M2 được sử dụng 12.002m
2
đất thửa 243), thuộc tờ bản đồ số 26 tọa lạc
tại P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận, tại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
01296/QSDD/2521/QD/H/2003 do Chủ tịch UBND huyện N, tỉnh Ninh Thuận cấp
cho ông Phạm Văn M2. Diện tích đất còn lại 5.293m
2
Nhà nước công nhận
quyền sử dụng đất cho ông Hứa Tậu M1, nhưng ông Phạm Văn M2 không cho gia
đình chúng tôi biết cho đến ngày 10/6/2022 khi Tòa án công khai chứng cứ, gia
đình chúng tôi mới biết việc ông Phạm Văn M2 chiếm giữ chuyển nhượng trái
pháp luật phần diện tích đất ca gia đình chúng tôi.
Ngày 29/9/2003, Chủ tịch UBND huyện N, tỉnh Ninh Thuận cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số: 01515/QSDĐ/1083/QĐ/H/2003 do cho Trần Kỳ M
với tổng diện tích 19.293m
2
đất tại các thửa đất số 244, 243 243c, tờ bản đồ số
26, nay toạ lạc tại P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận (trong đó cũng bao gồm phần
diện tích 5.293m
2
được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất cho ông Ha Tu
M1). Do đó bà M dùng tài sn này thế chp vay vốn Ngân hàng là vi phm điu cấm.
Vì vậy, các bị đơn không đồng ý yêu cầu khởi kiện của bà Trần Kỳ M đề nghị
Tòa án bác yêu cầu khởi kiện của M yêu cầu phản tố: Hủy Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đối với c thửa đất số 244, 243, với tổng diện tích
14.000m
2
đất thuộc tờ bản đồ số 26, nay toạ lạc tại xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận,
tại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01296/ QSDD/2521/QĐ/H/2003 do Chủ
tịch UBND huyện N, tỉnh Ninh Thuận cấp cho ông Phạm Văn M2 vào ngày
27/3/2003; Tuyên vô hiệu đối với Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối
với các thửa đất số 244, 243 và 243c tờ bản đồ số 26, toạ lạc tại xã P, huyện T, tỉnh
Ninh Thuận giữa ông Phạm Văn M2 Trần Kỳ M kết ngày 09/8/2003 với
tổng diện tích đất chuyển nhượng 19.293m
2
; Hủy Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số 01515/QSDĐ/1083/QD/H/2003 do Chủ tịch UBND huyện N, tỉnh
Ninh Thuận cấp cho Trần Kỳ M vào ngày 29/9/2003, tại c thửa đất số 244,
243 và 243c, tờ bản đồ số 26, nay toạ lạc tại P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. Buộc
Trần Kỳ M trả lại quyền sử dụng đất cho các bị đơn đồng sở hữu tổng diện
tích đất 5.293m
2
tại một phần các thửa đất số 244, 243, tờ bản đsố 26, nay toạ
lạc tại P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận, tại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
01296/QSDD/2521/QD/H/2003 do Chủ tịch UBND huyện N, tỉnh Ninh Thuận cấp
cho ông Phạm Văn M2 vào ngày 29/9/2003. Buộc Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh
Ninh Thuận xác lập lại và công nhận quyền đồng sở hữu quyền sử dụng đất đối với
các thửa đất số 244, 243, với tổng diện tích 14.000m
2
, đất thuộc tờ bản đồ số 26,
nay toạ lạc tại P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận, tại giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số 01296/QSDD/2521/QĐ/H/2003 do Chủ tịch UBND huyện N, tỉnh Ninh
Thuận cấp cho ông Phạm Văn M2 vào ngày 27/3/2003 cho các ông Hứa Thị R,
Hứa Thị Kiều X, Hứa Ngọc H, Não Đ, Kiều Văn QNão Nữ H. Đồng thời các bị
đơn ông Hứa Ngọc HHứa Thị R có yêu cầu phản tố bổ sung ngày 04/6/2024:
Tuyên hiệu đối với hợp đồng tín dụng hạn mức số 01/2024/17310628/HĐTD
ngày 23/4/2024 giữa Ngân hàng TMCP Đ1 - chi nhánh N1 với Trần Kỳ M;
5
Tuyên hiệu đối với hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số
01/2022/17310628/HĐBĐ giữa bên thế chấp bà Trần Kỳ M với bên nhận thế chấp
Ngân hàng TMCP Đ1 - chi nhánh N1.
- Tại đơn yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Tấn P, Hứa Thị Kiều L, quá
trình tố tụng và tại phiên tòa bà L trình bày:
Về nguồn gốc đất được cha mẹ bà ông Hứa Tậu M1, Kiều Thị B cho từ
năm 1989 vợ chồng đã xây dựng nhà ở, canh tác trên đất ổn định không tranh chấp
từ đó cho đến nay, một phần diện tích đất 2.022m
2
của chúng tôi, nằm trong một
trong các thửa đất số 244, 243 và 243c, tờ bản đồ số 26, toạ lạc tại P, huyện T,
tỉnh Ninh Thuận, được UBND huyện N cấp cho bà Trần Kỳ M là nguyên đơn trong
vụ án là không căn cứ, trái luật, đã xâm phạm nghiêm trọng quyền tài sản về đất
đai của vợ chồng chúng tôi. Do đó vợ chồng ông, yêu cầu: Hủy giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số 01515/QSDĐ/1083/QD/H1203 ngày 29/9/2003 của
UBND huyện N và công nhận quyền sử dụng 2.022m
2
đất thuộc một phần các thửa
244, 243, 243c tờ bản đồ 26 xã P cho vợ chồng bà.
Tuy nhiên, đến nay ông P L xác định các thửa đất số 244, 243, 243c tờ
bản đồ 26 P đang tranh chấp giữa nguyên đơn bị đơn không liên quan đến
quyền sử dụng đất của vợ chồng ông P và L nên ngày 24/11/2023 vợ chồng
đã rút yêu cầu độc lập. Trên phần đất thửa 243c vợ chồng đã xây dựng 01 căn
nhà diện tích 29,46m
2
để làm kho chứa đồ.
- Tại văn bản cam kết tài sản riêng lập ngày 28/10/2020 chứng thực n
phòng kinh tế văn hóa Việt Nam tại Đ người quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông
Yang Ching C trình bày:
Giữa ông và Trần Kỳ M vợ chồng theo Giấy chứng nhận kết hôn số 52
quyền số 02 do Trường quan ngoại giao, lãnh sự tỉnh Ninh Thuận cấp ngày
09/10/1998. Bằng văn bản này ông xin cam kết như sau: Thửa đất số 244, 243,
243c, tờ bản đồ số 26, diện tích 19.293m
2
tọa lạc tại P, huyện N, Ninh Thuận
nguồn gốc nhận chuyển nhượng tại hợp đồng số: 286/CN ngày 09/08/2003 của ông
Phạm Văn M2, tài sản riêng của Trần Kỳ M. Thửa đất này đã được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số: S 513802, số vào cấp số QSDĐ: 01515 do Ủy
ban nhân dân huyện N cấp ngày 29/09/2003 (ngày 12/05/2015 đổi tên từ huyện N
thành huyện T theo Nghị quyết số 26/NQ - CP ngày 10/06/2009 của Chính phủ).
Thửa đất đã nêu như trên do vợ Trần Kỳ M dùng tiền riêng của mình để mua,
ông không bất cứ một sự đóng góp nào vào việc tạo lập khối tài sản nêu trên.
Việc cam kết tài sản riêng không nhằm trốn tránh bất kỳ nghĩa vụ tài sản nào.
- Tại Văn bản số 959/UBND-NC ngày 03/4/2020, văn bản số 330/UBND -
TCD ngày 24/01/2024 người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân
huyện T trình bày:
Theo hồ địa chính, số mục đất đai xã P được xác lập ngày 03/02/1997
lưu tại UBND P: Thửa đất số 244, tờ bản đồ địa chính số 26, diện tích nguyên
thủy 1.988m
2
quy chủ cho Nông trường Thơm tàu đào, loại đất: Hoang (Hg); Thửa
đất số 243, tờ bản đồ địa chính 26, diện tích nguyên thủy 18.479m
2
quy chủ cho
Nông trường Thơm tàu đào, loại đất: Đất rẫy màu (DRM).
6
Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số S 3149612 do UBND huyện N
(nay huyện T) cấp ngày 27/3/2003 cho ông Phạm Văn M2: thửa đất số 244 tờ
bản đồ số 26 P được hình thành từ thửa đất nguyên thủy số 244, diện tích
nguyên thủy 1.998m
2
thửa đất số 243 được hình thành từ thửa đất nguyên thủy số
243, diện tích nguyên thủy 18.479m
2
theo Bản đồ địa chính đo đạc tháng 7 năm
1996 xã P.
Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số S 657109 do UBND huyện N
(nay huyện T) cấp ngày 22/7/2003 cho ông Phạm Văn M2: thửa đất số 243c, tờ
bản đồ địa chính số 26 được hình thành từ thửa đất nguyên thủy số 243, diện tích
nguyên thủy 18.479m
2
theo Bản đồ địa chính đo đạc tháng 7/1996 P. Việc cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Phạm Văn M2 là căn cứ theo quy định
ca Lut Đt đai năm 1993 các n bn hưng dn thi nh Luật Đt đai năm 1993.
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành S 513802 do Ủy ban nhân
dân huyện N cấp ngày 29/9/2003 cho hộ bà Trần Kỳ M đúng thẩm quyền và quy
định pháp luật tại thời điểm cấp. Do đó, UBND huyện T không không đồng ý hủy
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành S 513802. Đồng thời khi tách
huyện N thành lập mới huyện T, qua bàn giao hồ từ Văn phòng Đăng
quyền sử dụng đất huyện N với Văn phòng Đăng quyền sử dụng đất huyện T
không hồ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ Trần Kỳ M (do
thất lạc).
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Phạm Văn M2 trình bày:
Phần đất đang tranh chấp khu đất của Nông trường Thơm tàu đào quản lý,
sử dụng từ 1978 trong tổng diện tích tại P. Năm 1993 do hưởng ứng chính sách
trồng rừng ông M2 làm đơn và được UBND huyện N, Nông trường chấp nhận
cho ông khai hoang. Việc khai hoang trồng rừng của ông đầy đủ đơn quyết
định chấp thuận của UBND huyện N, Lâm trường về việc giao đất trồng rừng. Nay
ông M2 còn giữ các bản photo đã photo từ hồ gốc. Quá trình huyện Nông
trường giao đất có vẽ đồ khu đất. Sau khi được chấp thuận ông đã khai hoang ủi
đất trồng keo tràm, hàng năm đều biên bản nghiệm thu. Ông M2 khai
hoang ban đầu ghi 1,4 ha nhưng thực tế diện tích khai hoang thực tế 19.293m
2
,
quá trình canh tác đất ông có đăng ký xin cấp quyền sử dụng và tháng 8/2003 và đã
được cấp giấy chứng nhận toàn bộ diện tích đất này, sau đó ông chuyển nhượng
cho bà Trần Kỳ M. Khi ông chuyển nhượng cho M cũng đảm bảo đủ điều kiện
theo quy định của pháp luật đã làm thủ tục sang tên cho M, đến nay ông
không còn quyền lợi gì trên đất. Ông không đồng ý với yêu cầu của các bị đơn.
- Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Ngân hàng TMCP Đ1 tại văn bản
số 1089/TB - B1. NT ngày 08/5/2024 và quá trình tố tụng trình bày:
Trần Kỳ M đang vay vốn tại Ngân hàng với các hợp đồng tín dụng như
sau: Hợp đồng tín dụng hạn mức số 01/2024/17310628/HĐTD ngày 23/4/2024 với
số tiền vay 4.100.000.000 đồng; Hợp đồng cấp hạn mức thấu chi số
01/2024/17310628/HĐHMTC ngày 23/4/2024 với số tiền vay 2.000.000.000 đồng,
dư nợ hiện tại 1.802.479.430 đồng.
Tài sản thế chấp quyền sử dụng đất rừng sản xuất theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số S 513802 do Ủy ban nhân dân huyện N cấp ngày 29/9/2003
7
cho hộ bà Trần Kỳ M và các tài sản khác theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
và tài sản gắn liền với đất số 01/2022/17310628/HĐBĐ ngày 26/4/2022.
Đề nghị M tiếp tục duy trì hợp đồng thế chấp tài sản nói trên để đảm bảo
nghĩa vụ trả nợ vay của Ngân hàng. Đến nay các hợp đồng tín dụng vẫn còn trong
thời hạn, bà M cũng chưa vi phạm hợp đồng, do đó Ngân hàng không có tranh chấp
khởi kiện trong vụ án này. Trường hợp M vi phạm nghĩa vụ thanh toán trong
hợp đồng thì Ngân hàng sẽ khởi kiện vụ án dân sự khác và đề nghị không tiến hành
hòa giải.
Tại Bản án dân sự thẩm số: 09/2024/DS-ST ngày 01/8/2024 của Toà án
nhân dân tỉnh Ninh Thuận đã quyết định:
Căn cứ vào: khoản 2, 3, 9 Điều 26, Điều 34, Điều 74, khoản 1 Điều 37; Điều
147, Điều 157, Điều 165, Điều 227, Điều 228, Điều 273, Điều 469 của Bluật Tố
tụng dân sự năm 2015 khoản 4 Điều 32 Luật Tố tụng hành chính 2015; Điều
160, Điều 161, Điều 221 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 2, Điều 3 Luật Đất đai
1993; khoản 2 Điều 10 Luật Đất đai 2003; Điều 5, khoản 5 Điều 26, các Điều 100,
166, 202, 203 Luật Đất đai năm 2013; các Điều 12, 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án
phí, lệ phí Tòa án; Điều 6, Điều 7 Thông tư liên tịch số: 01/2014/TTLT - TANDTC
- VKSNDTC - BTP.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Trần Kỳ M đối
với đồng bị đơn Hứa Thị R, Hứa Thị Kiều X, ông Hứa Ngọc H, ông Kiều
Văn Q, Não Nữ Hồng L1, ông Não Đ người kế thừa quyền nghĩa vụ tố
tụng của ông Hứa Tậu M1 Hứa Thị Mây S, Hứa Thị R, Hứa Thị Kiều
X, bà Hứa Thị Kiều L, ông Hứa Ngọc H.
1.1. Buộc đồng bị đơn là các ông (bà) Hứa Thị R, Hứa Thị Kiều X, Hứa Ngọc
H, Kiều Văn Q, Não Nữ H, Não Đ những người kế thừa quyền nghĩa vụ tố
tụng của ông M1 là ông (bà) Hứa Thị Mây S, Hứa Thị R, Hứa Thị Kiều X, Hứa Thị
Kiều L, Hứa Ngọc H phải tháo dỡ, di dời nhà tạm diện tích 6,71m
2
(kết cấu: xây
gạch không tô, nền cát, phần mái đã bị sụp đổ) để giao trả cho bà Trần Kỳ M quyền
sử dụng đất lấn chiếm diện tích 6,72m
2
thửa số 243 (ký hiệu theo trích lục thửa
243a) tờ bản đồ 26, xã P buộc chấm dứt hành vi cản trở bà Trần Kỳ M thực hiện
quyền của chủ sử dụng đất các thửa 244, 243, 243c tờ bản đồ 26, P theo các
điểm mốc ( 1, 2, 3, 4, 5, 6, 16, 17, 18, 9, 10, 11, 12, 20, 15, 14) theo Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất s S 513802 do y ban nhân dân huyện N cấp ngày
29/9/2003 cho bà Trần Kỳ M.
(Có trích bản đồ địa chính ngày 13/7/2023 ca Văn phòng Đ2 kèm theo).
1.2. Buộc vợ chồng ông Nguyễn Tấn P, bà Hứa Thị Kiều L phải tháo dỡ, di
dời nhà diện tích 29,6m
2
(kết cấu: nền xi măng, móng gạch, tường ạch, mái tole, xà
gồ gỗ, cửa gỗ đã xuống cấp) để giao trả cho bà Trần Kỳ M quyền sử dụng đất lấn
chiếm diện tích 29,6m
2
thửa số 243c tờ bản đồ 26, P theo giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số S 513802 do Ủy ban nhân dân huyện N cấp ngày 29/9/2003
cho bà Trần Kỳ M.
8
(Có trích bản đồ địa chính ngày 13/7/2023 ca Văn phòng Đ2 kèm theo).
2. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của đồng bị đơn các ông (bà)
Hứa Thị R, Hứa Thị Kiều X, Hứa Ngọc H, Kiều Văn Q, Não NH, Não Đ và
người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Hứa Tậu M1 Hứa Thị Mây
S, bà Hứa Thị R, bà Hứa Thị Kiều X, bà Hứa Thị Kiều L, ông Hứa Ngọc H.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về đình chỉ yêu cầu độc lập của
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Tấn P và bà Hứa Thị Kiều L; về
chi phí thẩm định, định giá; về án phí dân sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo quy
định của pháp luật.
- Ngày 12/8/2024, bị đơn ông Hứa Ngọc H kháng cáo Bản án sơ thẩm yêu cầu
Toà án cp phúc thẩm sa án sơ thm, chp nhn toàn b u cu phn t của b đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:
- Bị đơn ông Hứa Ngọc H ông Kiều Văn Q làm đại diện giữ nguyên yêu
cầu kháng cáo với lý do: Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ nguồn gốc đất là đất công
nhưng Ủy ban nhân dân huyện N lại cấp cho ông M2 không đúng quy định của
pháp luật việc ông M2 chuyển nhượng cho bà M trái pháp luật. Đnghị Tòa
án cấp phúc thẩm sửa án thẩm, bác đơn khởi kiện của M chấp nhận yêu
cầu phản tố của các bị đơn.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn ý kiến: Nguồn gốc
đất là của ông Hứa Tậu M1 do Nhà nước thu hồi để thành lập Nông trường; Sau đó
giao cho ông M2 trồng rừng phủ xanh đồi trọc, trong đó thửa 243 ông M2 tách
ra xin khai hoang, việc ông M2 khai đất công để được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất trái pháp luật. Ngoài ra, cấp thẩm không đưa ông Hứa
Ngọc L2 tham gia tố tụng với cách người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng
của bị đơn Hứa Tậu M1 là vi phạm nghiêm trong thủ tục tố tụng.
- Nguyên đơn Trần Kỳ M ý kiến: M nhận chuyển nhượng đất của
ông M2 hợp pháp. Phía bị đơn không giấy tờ nhưng cản trở việc sử dụng đất
của M không đúng quy định của pháp luật. Đề nghị Tòa án phúc thẩm bác
kháng cáo của ông H, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát
biểu quan điểm giải quyết vụ án: Những người tiến hành tố tụng và người tham gia
tố tụng đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Pháp Luật tố tụng
dân sự; Đơn kháng cáo của nguyên đơn làm trong hạn luật định đủ điều kiện để giải
quyết theo thủ tục phúc thẩm.
Về nội dung kháng cáo của bị đơn ông Hứa Ngọc H, Kiểm sát viên có ý kiến:
Bản án sơ thẩm tuyên xử chấp nhận yêu cầu của bị đơn là có căn cứ. Do đó, đề nghị
căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, bác yêu cầu kháng cáo của ông
H, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh
tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:
9
[1] Đơn kháng cáo của bị đơn Hứa Ngọc H m trong hạn luật định, đủ điều
kiện để xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ đến lần
thứ hai vẫn vắng mặt nên tiến hành xét xử phúc thẩm vắng mặt những người
liên quan theo quy đnh ti khon 3 Điu 296 ca Blut T tng n s m 2015.
[2] Bị đơn ông Hứa Tậu M1 chết nên phát sinh người kế thừa quyền và nghĩa
vụ tố tụng của bị đơn ông M1 gồm Hứa Thị Mây S, sinh năm 1969; Hứa Thị
R, sinh năm 1964; Hứa Thị Kiều X, sinh năm 1965; Hứa Thị Kiều L, sinh
năm 1968; ông Hứa Ngọc H, sinh năm 1971.
Tại phiên tòa phúc thẩm người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bị đơn ông Hứa
Ngọc H cho rằng Toà án cấp sơ thẩm không đưa Hứa Ngọc L2 tham gia tố tụng với
cách người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của bđơn Hứa Tậu M1 vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Xét thấy, sau khi xét xử thẩm chỉ bị đơn
ông Hứa Ngọc H kháng cáo. Do đó, việc giải quyết yêu cầu kháng cáo của ông H
không làm thay đổi quyền lợi ích hợp pháp của những người thừa kế của ông
Hứa Tậu M1 nên không cần thiết phải hủy án thẩm theo đề nghị của người bảo
vệ quyền lợi hợp pháp của bị đơn ông Hứa Ngọc H.
[3] Xét kháng cáo của bị đơn ông Hứa Ngọc H, nhận thấy:
[3.1] Theo hồ sơ địa chính, sổ mục kê đất đai xã P được xác lập ngày
03/02/1997 lưu tại Ủy ban nhân dân xã P thì thửa đất số 244, tờ bản đồ địa chính số
26, diện tích nguyên thủy 1.988m
2
do Nông trường Thơm tàu đào kê khai đăng
loại đất: Hoang (Hg); Thửa đất số 243, tờ bản đồ địa chính 26, diện tích nguyên
thủy 18.479m
2
do Nông trường Thơm tàu đào khai đăng loại đất: Đất rẫy
màu (DRM).
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ trong hồ thể hiện: Vào ngày 03/6/1993
ông Phạm Văn M2 làm đơn xin khai hoang ghi diện tích 1,4 ha (chiều dài dọc theo
QL 1A 140m, chiều rộng 100m) được Ủy ban nhân n xác nhận ngày
14/6/1993 nội dung: "Diện tích khai hoang nằm trong ranh giới qui hoạch của
Lâm trường huyện hiện đang bỏ hoang"; tại Hợp đồng kinh tế giao đất trồng rừng
diện tích 1,4 ha cho ông Phạm Văn M2 ngày 15/8/1993 của Lâm trường N2
Quyết định số: 137/QĐ.NP ngày 26/8/1993 của Chủ tịch UBND huyện N về việc
giao đất trồng rừng, thời gian sử dụng 30 năm (từ tháng 8/1993 đến tháng 8/2023)
trong danh sách tên ông Phạm Văn M2 được giao diện tích 1,4 ha; Hợp đồng
khoán bảo vệ rừng, gây trồng rừng phòng hộ, phủ xanh đất trống trọc của Lâm
trường Ninh P1 cùng Khế ước số 30/KU/UB cùng ngày 01/8/1995 của Lâm trường
về việc giao đất diện tích 1,54 ha đính kèm sơ đvị trí đất. Ngoài ra, ông M2 tiếp
tục khai hoang hóa diện tích 5.293m
2
đất.
Trong quá trình sử dụng đất, ông M2 đã khai đăng cấp quyền sử dụng
và được UBND huyện N cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ: 01296
QSDĐ/252/QĐ/H/2003 ngày 27/3/2003 đối với thửa đất 244 tờ bản đồ số 26 diện
tích 1.998m
2
thửa 243 bản đồ số 26 diện tích 12.002m
2
loại đất R.T.P Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số vào s: 01326. QSDĐ/818/QĐ/H/2003 ngày
22/7/2003 đối với thửa đất 243C diện tích 5.293m
2
đất R.T.P căn cứ theo quy
định của Luật Đất đai năm 1993.
10
Sau đó, ngày 11/8/2003, ông Nguyễn Văn M3 lập hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất cho Trần Kỳ M diện tích 19.293m
2
đất lâm nghiệp (RTP)
được Ủy ban nhân dân P, huyện N xác nhận cùng ngày 11/8/2003. Đến ngày
29/9/2003, Trần Kỳ M được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát
hành S 513802 đối với thửa đất 243, 244, 243C tờ bản đồ số 26 diện tích 19.293m
2
tọa lạc tại thôn N, xã P, huyện N là có căn cứ, đúng pháp luật. Đến ngày 05/6/2014,
UBND huyện T ban hành Quyết định số: 163/QĐ - UBND thu hồi một phần diện
tích 1.119m
2
thuộc thửa 244 bồi thường cho Trần Kỳ M số tiền 30.213.000
đồng. Thời điểm này cũng không có phát sinh tranh chấp.
Người đại diện hợp pháp của các bị đơn cho rằng vào năm 1982 Nhà nước
trưng thu 10 ha của gia đình ông Hứa Tậu M1 để thành lập Nông trường Thơm tàu
đào, đến năm 1993 Nông trường giải thể giao lại đất cho Lâm nghiệp huyện N để
giao lại đất cho hộ dân. Gia đình ông M1 khiếu nại được giải quyết trả lại một
phần đất, riêng diện tích 19.293m
2
thuộc thửa 244, 243 tờ bản đồ 26 không được
giải quyết mà giao đất cho ông M3 sử dụng, trước đây ông Phạm Văn M2 trồng
cây trên đất của ông Hứa Tậu M1 thỏa thuận khi thu hoạch xong sẽ giao đất
nhưng sau đó ông M2 không đồng ý trả đất nên phát sinh tranh chấp.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông M2 không thừa nhận lời thỏa
thuận giao trả lại đất cho ông M1. Trong khi đó các bị đơn cũng không cung cấp
được tài liệu, chứng cứ để chứng minh về việc ông M2 thỏa thuận giao trả lại đất
cho gia đình ông Hứa Tậu M1.
Theo Điều 2 Luật Đất đai năm 1993 quy định: “Nhà nước không thừa nhận
việc đòi lại đất trong quá trình thực hiện chính sách đất đai” Tại Văn bản số
44/BC-UBND ngày 29/10/2003 của Ủy ban nhân dân P báo cáo về tình hình
tranh chấp đất của chủ đất cũ, xác định diện tích giao trả cho ông M1 không nằm
trong Giấy chứng nhận đã cấp cho ông Phạm Văn M2. Đồng thời tại hồ sơ địa
chính sổ mục kê, không tên ông Hứa Tậu M1 đăng khai đăng sử
dụng đất đối với thửa đất 243, 244,243C tờ bản đồ số 26 tọa lạc tại thôn N, xã P,
huyện N.
Tại Văn bản số: 959/UBND-NC ngày 03/4/2020 văn bản số: 330/UBND-
TCD ngày 24/01/2024 Ủy ban nhân dân huyện T xác định: “Việc cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho ông Phạm Văn M2 căn cứ theo quy định của Luật
Đất đai năm 1993 và việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số S 513802 cấp
ngày 29/9/2003 đối với các thửa đất 244, 243, 243c cho Trần Kỳ M đúng
đúng thẩm quyền và đúng trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật”.
Do đó, nguyên đơn M khởi kiện yêu cầu các bị đơn người liên quan
nghĩa vụ tháo dỡ, di dời nhà tạm để trả lại đất yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở
M thực hiện quyền sử dụng đất của bà M tại các thửa 244, 243, 243c tờ bản đồ
26, xã P theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số S 513802 do Ủy ban nhân dân
huyện N cấp ngày 29/9/2003 cho Trần Kỳ M căn cứ, đúng quy định của
pháp luật.
Các bị đơn yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông M2;
hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho M yêu cầu hiệu hợp
đồng chuyển nhượng giữa ông M2 và M đối với các thửa 244, 243, 243c tờ bản
11
đồ 26, xã P và yêu cầu bà Trần Kỳ M trả lại quyền sử dụng đất cho các bị đơn đồng
sở hữu diện tích đất 14.000m
2
thuộc thửa 244, 243 diện tích 5.293m
2
thửa 243c,
tờ bản đồ số 26 là chưa có căn cứ để chấp nhận.
[3.2] Tại biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 30/5/2020 trích đo bản
đồ địa chính ngày 13/7/2023 đã thể hiện: Trên thửa đất 243a 01 căn nhà tạm
diện tích 3,5m x 2,2m kết cấu xây gạch không tô, nền cát, phần mái đã sụp đổ,
xuống cấp không còn gtrị sử dựng - Căn nhà tạm do bị đơn xây dựng; Tại thửa
243c một căn nhà tạm diện tích 29,46m
2
nền xi măng, móng gạch, tường gạch,
mái tole, gồ gỗ, cửa gỗ (đã xuống cấp) do ông Nguyễn Tấn P Hứa Thị
Kiều L xây dựng.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của các bị đơn cũng
thừa nhận vào năm 2010 gia đình ông M1 cất một chòi tạm trên đất để giữ đất,
hiện nay chòi tạm không còn giá trị sử dụng. Xét thấy các bị đơn lấn chiếm xây
dựng 01 căn nhà tạm diện tích (3,5m x 2,2m) =7,71m
2
tại thửa 243a ngăn cản
việc sử dụng đất của Trần Kỳ M không đúng quy định của pháp luật. Đồng
thời tại phần đất tại thửa 243c, tờ bản đồ 26 thì người quyền lợi nghĩa vụ liên
quan ông P, L đang lấn chiếm diện tích 29,46m
2
để xây dựng 01 nhà tạm trên
phần đất của bà M. Do đó, Bản án sơ thẩm buộc các bị đơn tháo dỡ, di dời nhà tạm
diện tích (3,5m x 2,2m) kết cấu: xây gạch không tô, nền cát, phần mái đã bị sụp đổ
để giao trả cho Trần Kỳ M diện tích7,71m
2
(3,5m x 2,2m) thuộc thửa số 243 (ký
hiệu theo trích lục thửa 243a) tờ bản đồ 26, P buộc chấm dứt hành vi cản trở
Trần Kỳ M thực hiện quyền của chủ sử dụng đất các thửa 244, 243, 243c tờ bản
đồ 26, xã P theo các điểm mốc (1, 2, 3, 4, 5, 6, 16, 17, 18, 9, 10, 11, 12, 20, 15, 14)
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số S 513802 do Ủy ban nhân dân huyện
N cấp ngày 29/9/2003 cho bà Trần Kỳ M buộc vợ chồng ông Nguyễn Tấn P,
Hứa Thị Kiều L phải tháo dỡ, di dời nhà diện tích 29,46m
2
(kết cấu: nền xi măng,
móng gạch, tường gạch, mái tole, xà gồ gỗ, cửa gỗ đã xuống cấp) để giao trả cho bà
Trần Kỳ M quyền sử dụng đất lấn chiếm diện tích 29,6m
2
thửa số 243c tờ bản đồ
26, xã P theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số S 513802 do Ủy ban nhân dân
huyện N cấp ngày 29/9/2003 cho bà Trần Kỳ M là có căn cứ.
[4] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn Hứa Ngọc H kháng cáo nhưng không xuất
trình được tài liệu chứng cứ nào mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của
mình. Do đó, không chấp nhận kháng cáo của ông Hứa Ngọc H, giữ nguyên bản án
thẩm theo quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh là có căn cứ .
Tuy nhiên, phần quyết định của Bản án sơ thẩm tuyên buộc các bị đơn tháo dỡ
phần nhà tạm diện tích 6,71m
2
và buộc ông P và bà L tháo dỡ nhà tạm 29,6m
2
là có
sai sót về số liệu nên điều chỉnh lại cho chính xác như sau: Buộc đồng bị đơn là các
ông (bà) Hứa ThR, Hứa Thị Kiều X, Hứa Ngọc H, Kiều Văn Q, Não Nữ H, Não
Đ những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông M1 ông (bà) Hứa
Thị Mây S, Hứa Thị R, Hứa Thị Kiều X, Hứa Thị Kiều L, Hứa Ngọc H phải tháo
dỡ, di dời nhà tạm kết cấu: xây gạch không tô, nền cát, phần mái đã bị sụp đdiện
tích 3,5m x 2,2m =7,71m
2
để giao trả cho Trần Kỳ M quyền sử dụng đất lấn
chiếm diện tích 7,71m
2
thuộc thửa số 243 (ký hiệu theo trích lục thửa 243a) tờ bản
đồ 26, P buộc chấm dứt hành vi cản trở Trần Kỳ M thực hiện quyền của
12
chủ sử dụng đất các thửa 244, 243, 243c tờ bản đồ 26, P theo các điểm mốc (1,
2, 3, 4, 5, 6, 16, 17, 18, 9, 10, 11, 12, 20, 15, 14) theo giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số S 513802 do Ủy ban nhân dân huyện N cấp ngày 29/9/2003 cho
Trần Kỳ M; Buộc vợ chồng ông Nguyễn Tấn P, bà Hứa Thị Kiều L phải tháo dỡ, di
dời nhà kết cấu: nền xi măng, móng gạch, tường gạch, mái tole, xà gồ gỗ, cửa gỗ đã
xuống cấp diện tích 29,46m
2
để giao trả cho Trần Kỳ M quyền sử dụng đất lấn
chiếm diện tích 29,46m
2
thửa số 243c, tờ bản đồ 26, P theo giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số S 513802 do Ủy ban nhân dân huyện N cấp ngày 29/9/2003
cho bà Trần Kỳ M là có căn cứ.
[5] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông Hứa
Ngọc H phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 29 của
Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí
lệ phí Tòa án.
[6] Các Quyết định khác của Bản án thẩm về đình chỉ giải quyết ván đối
với yêu cầu độc lập của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Tấn P
và bà Hứa Thị Kiều L; về chi phí tố tụng; về án phí dân sự sơ thẩm không có kháng
cáo, kháng nghị hiệu lực pháp luật thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo,
kháng nghị.
Vì những lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1
Điều 29 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Không chấp nhận kháng cáo của ông Hứa Ngọc H.
2. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 09/2024/DS-ST ngày 01/8/2024 của
Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận:
Căn cứ vào: khoản 2, 3, 9 Điều 26, Điều 34, Điều 74, khoản 1 Điều 37; Điều
147, Điều 157, Điều 165, Điều 227, Điều 228, Điều 273, Điều 469 của Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 khoản 4 Điều 32 Luật Tố tụng hành chính 2015; Điều
160, Điều 161, Điều 221 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 2, Điều 3 Luật Đất đai
1993; khoản 2 Điều 10 Luật Đất đai 2003; Điều 5, khoản 5 Điều 26, các Điều 100,
166, 202, 2023 Luật Đất đai năm 2013; các Điều 12, 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án
phí, lệ phí Tòa án; Điều 6, Điều 7 Thông tư liên tịch số: 01/2014/TTLT - TANDTC
- VKSNDTC - BTP. Tuyên xử:
- Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của đồng bị đơn các ông (bà)
Hứa Thị R, Hứa Thị Kiều X, Hứa Ngọc H, Kiều Văn Q, Não NH, Não Đ và
người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của ông Hứa Tậu M1 Hứa Thị Mây
S, Hứa Thị R, Hứa Thị Kiều X, bà Hứa Thị Kiều L, ông Hứa Ngọc H; Chấp
nhận toàn b yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Trần Kỳ M:
13
- Buộc đồng bị đơn là các ông (bà) Hứa Thị R, Hứa Thị Kiều X, Hứa Ngọc H,
Kiều Văn Q, Não Nữ H, Não Đ những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng
của ông M1 ông (bà) Hứa Thị Mây S, Hứa Thị R, Hứa Thị Kiều X, Hứa Thị
Kiều L, Hứa Ngọc H phải tháo dỡ, di dời nhà tạm diện tích 7,71m
2
(kết cấu: xây
gạch không tô, nền cát, phần mái đã bị sụp đổ) để giao trả cho bà Trần Kỳ M quyền
sử dụng đất lấn chiếm diện tích 7,71m
2
thuộc thửa số 243 (ký hiệu theo trích lục
thửa 243a) tờ bản đồ 26, xã P và buộc chấm dứt hành vi cản trở bà Trần Kỳ M thực
hiện quyền của chủ sử dụng đất đối với các thửa 244, 243, 243c tờ bản đồ 26, P
theo các điểm mốc (1, 2, 3, 4, 5, 6, 16, 17, 18, 9, 10, 11, 12, 20, 15, 14) theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số S 513802 do Ủy ban nhân dân huyện N cấp ngày
29/9/2003 cho bà Trần Kỳ M.
- Buộc vợ chồng ông Nguyễn Tấn P, Hứa Thị Kiều L phải tháo dỡ, di dời
nhà diện tích 29,46m
2
(kết cấu: nền xi măng, móng gạch, tường gạch, mái tole, xà
gồ gỗ, cửa gỗ đã xuống cấp) để giao trả cho bà Trần Kỳ M quyền sử dụng đất lấn
chiếm diện tích 29,6m
2
thửa số 243c tờ bản đồ 26, P theo giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số S 513802 do Ủy ban nhân dân huyện N cấp ngày 29/9/2003
cho bà Trần Kỳ M.
(Kèm theo trích lục bản đồ địa chính do Văn phòng Đ2 lập ngày 13/7/2023)
3. Về án phí phúc thẩm: Ông Hứa Ngọc H phải nộp 300.000 đồng (ba trăm
ngàn đồng) án phí dân sự phúc thẩm. Được khấu trừ vào số tiền nộp tạm ứng án phí
phúc thẩm 300.000 đồng theo biên lai thu số 0000111 ngày 15/8/2024 tại Cục Thi
hành án dân sự tỉnh Ninh Thuận.
4. Các Quyết định khác của Bản án thẩm vđình chỉ giải quyết vụ án đối
với yêu cầu độc lập của người quyền lợi nghĩa vliên quan ông Nguyễn Tấn P
và bà Hứa Thị Kiều L; về chi phí tố tụng; về án phí dân sự sơ thẩm không có kháng
cáo, kháng nghị hiệu lực pháp luật thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo,
kháng nghị.
5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân
sự, người phải thi hành án dân sự quyền thỏa thuận thi hành án; quyền yêu cầu
thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại
các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm
2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành
án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
14
Tải về
Bản án số 182/2025/DS-PT Bản án số 182/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 182/2025/DS-PT Bản án số 182/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất