Bản án số 18/2025/DS-ST ngày 20/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 6 - Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 18/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 18/2025/DS-ST ngày 20/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 6 - Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân khu vực 6 - Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị
Số hiệu: 18/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 20/09/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN KHU
VỰC 6 - QUẢNG TR
Bản án số: 18/2025/DS-ST
Ngày: 20-9-2025
V/v “Yêu cầu công nhận quyền
sử dụng đất là di sản thừa kế và
tranh chấp quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 6 - QUẢNG TR
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên t: Ông Phan Đăng Khoa.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Trần Thế Nam và bà Lê Thị Hồng Huệ.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Bình - Thư ký Toà án nhân dân khu vực
6 - Quảng Trị.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 6 - Quảng Trị tham gia phiên
toà: Bà Phạm Thị Thủy - Kiểm sát viên.
Ngày 20 tháng 9 năm 2025, ti Hội trường xét xử Tòa án nhân dân khu vc
6 - Qung Tr xét x thẩm công khai v án dân s th lý s: 32/2025/TLST-DS
ngày 28 tháng 4 năm 2025 v việc: Yêu cu công nhận quyền sử dụng đất yêu
cầu chấm dứt hành vi cản trở việc sử dụng đất trái pháp luật theo Quyết định đưa
v án ra xét x số: 13/2025/QĐXXST-DS ngày 15 tháng 8 năm 2025; Quyết định
hoãn phiên tòa đô 13/2025/QĐST-DS ngày 05/9/2025 Quyết định hoãn phiên tòa
s 22/2025/QĐST-DS ngày 15/9/2025 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Trần Hữu N, sinh năm 1954; căn cước công dân số:
045054000400; nơi trú: khu phố B, phường Q, tỉnh Quảng Trị (khu phố B,
phường C, thị xã Q, tỉnh Quảng Trị cũ). Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phùng
Thế Phú Q, sinh năm 1990; căn cước công dân số 048090004930; nơi trú: khu
phố A, xã C, tỉnh Quảng Trị (văn bản ủy quyền ngày 22/7/2025), có mặt.
B đơn: Văn Thị T, sinh năm 1950; căn cước công dân số: 045150004429;
nơi trú: thôn G, xã N, tỉnh Quảng Trị (thôn G, T, huyện T, tỉnh Quảng Trị cũ).
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Trần Thị M, sinh năm 1977; căn cước công dân
số 0451770003318; nơi trú: thôn I, N, tỉnh Quảng Trị (văn bản ủy quyền ngày
28/7/2025), có mt.
Người có quyn li nghĩa vụ liên quan:
+ Trần Thị D, sinh năm 1928; nơi trú: thôn H, N, tỉnh Quảng Trị
(thôn H, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Trị cũ), có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.
+ Ông Trần Khánh M1, sinh năm 1968; căn cước công dân số:
045068010383; nơi trú: thôn H, N, tỉnh Quảng Trị (thôn H, T, huyện T,
tỉnh Quảng Tr cũ), có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.
2
+ Trần Thị M2, sinh năm 1944; nơi trú: khu phố G, phường Q, tỉnh
Quảng Trị (khu phố G, phường C, thị xã Q, tỉnh Quảng Trị cũ), có đơn đề nghị giải
quyết vắng mặt.
+ Ông Trần Khắc M3, sinh năm 1963; nơi cư trú: số nhà A ngõ A đường N,
phường P, quận T, thành phố Hà Nội, có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.
+ Trần Thị L, sinh năm 1966; nơi trú: ấp B, B, thành phố Hồ Chí
Minh (ấp B, B, huyện X, tỉnh Rịa Vũng Tàu cũ), đơn đnghị giải quyết
vắng mặt.
+ Ông Trần Khánh X, sinh năm 1950; căn cước công dân số: 045050000205;
nơi cư trú: khu phố H, phường Q, tỉnh Quảng Trị (khu phố H, phường C, thị xã Q,
tỉnh Quảng Tr cũ), có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.
+ Hoàng Thị D1, sinh năm 1948; căn cước công dân số: 045148002180
nơi trú: thôn T, xã V, tỉnh Quảng Trị (thôn T, H, huyện H, tỉnh Quảng Tr cũ),
có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.
+ Hoàng Thị Q1, sinh năm 1942; căn cước công dân số 046142003314;
nơi trú: Tổ n Phố H, phường P, thành phố H (thôn H, L, huyện P, tỉnh Thừa
Thiên Huế cũ), có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.
+ Ông Trần Bình H, sinh năm 1988; căn cước công dân số: 046088001569
Nguyễn Thị H1, sinh năm 1993; căn cước công dân số: 045193003773; đều
cư trú tại: thôn H, N, tỉnh Quảng Trị (thôn H, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Trị cũ);
ông H vắng mặt, bà H1 có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.
NI DUNG V ÁN:
Theo đơn khởi kin ngày 15/4/2025, li trình bày của nguyên đơn, người đại
din theo y quyn của nguyên đơn tại phiên hòa gii ngày 29/7/2025, ngày
15/8/2025, trong quá trình gii quyết v án và ti phiên tòa thì ni dung v án như
sau: Ông, nội của ông Trần Hữu N cụ Trần Gia B (mất năm 1972) cụ
Thị C (mất năm 1978). Quá trình chung sống, hai cụ sinh ra 05 người con gồm: ông
Trần Thái C1 (chết năm 1990), ông Trần Thái T1 (chết năm 1986), bà Trần Thị T2
(chết năm 1998), ông Trần Thái D2 (hy sinh năm 1954) bà Trần Thị D. Vợ chồng
cụ B cụ C có thửa đất thổ cư số thửa 385, tờ bản đồ địa chính số 13, tại thôn H,
T, huyện T (nay thôn H, N), tỉnh Quảng Trị với tổng diện tích 2.998m
2
.
Trong thời gian chiến tranh cụ B cụ C trên mảnh đất đó, trước khi cụ B và cụ
C mất, các cụ đều nguyện vọng muốn con cháu xây dựng từ đường cho gia
tộc trên mảnh đất của các cụ. Năm 1977, ông Trần Khánh D3 (là cháu nội) lập gia
đình với Văn Thị T vxin tạm trên mảnh đất này. Đến năm 1983, hai vợ
chồng ly hôn, T về qngoại tại thôn G, T, huyện T, tỉnh Quảng Trị sinh sống.
Sau đó, mảnh đất này được gia đình ông Trần Hữu N tiến hành trồng cây. Đến năm
1985, Trần Thị T2 mượn đất để ở, năm 2018 T2 mất. Năm 2021, các con
của T2 là Hoàng Thị D1, Hoàng Thị Q1 đã thỏa thuận, bàn giao nhà và đất cho
ông Trần Hữu N sử dụng. Toàn bộ anh em trong gia tộc y quyền cho ông Trần Hữu
3
N đứng tên lập hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất này.
Trong quá trình ông Trần Hữu N lập hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
thì Văn Thị T đơn gửi đến UBND T tranh chấp, cản trở ông Trần Hữu N
trong việc làm hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất này. Ủy ban
nhân dân T đã hai lần mời hai bên hòa giải, nhưng T cố tình không hợp tác đ
giải quyết tranh chấp. vậy, ông N đề nghị Toà án giải quyết: Công nhận quyền
sử dụng đất theo kết quả đo đạc hiện nay tổng diện tích 2.961,4m
2
đất, tại thửa
đất số 385, 386, tờ bản đồ địa chính số 95 tại thôn H, xã N, tỉnh Quảng Trị di sản
của cụ Trần Gia B cụ Thị C (kết quả đo đạc trước đây là 2.998m
2
, thửa đất
số 385, tờ bản đồ địa chính số 13 tại thôn H, xã T); giao toàn bộ di sản của cụ B và
cụ C cho ông Trần Hữu N người trực tiếp quản lý, sử dụng và liên hệ cơ quan có
thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Buộc Văn Thị T chấm dứt hành vi cản trở quyền của những người sdụng đất
thuộc hàng thừa kế theo pháp luật của cụ Trần Gia B và cụ Thị C theo quy định
của pháp luật. Chứng cứ đối với yêu cầu này căn cứ vào Đơn đề nghị xác nhận
nguồn gốc đất của ông Trần Hữu N được UBND xã T xác nhận vào ngày
29/10/2024.
Tại văn bản trình bày ý kiến ngày 05/7/2025 của bị đơn, đơn trình bày ý kiến
ngày 29/8/2025 của người đại điện theo ủy quyền của bị đơn, trong quá trình giải
quyết vụ án và tại phiên tòa, bà Trần Thị M là người đại diện theo ủy quyền của bị
đơn trình y: Về nguồn gốc thửa đất đang tranh chấp, trước năm 1972 thửa đất này
nơi của cụ Trần Gia B cụ Thị C. Hai cụ ông, nội của ông Trần Khánh
D3. Năm 1972, hai cụ gia đình di tản ra huyện V cụ Trần Gia B mất tại V.
Năm 1973, Văn Thị T ông Trần Khánh D3 kết hôn, sinh ra hai người con, một
người mất, còn một người tên anh Trần Bình H2, sinh năm 1974. Năm 1975
đất nước giải phóng, ông D3, bà T đưa con anh H2 từ V trở về T được cụ
Thị C cho mảnh đất hiện tại đang tranh chấp với ông Trần Hữu N để khai
hoang, dựng nhà đở. Trong thời gian trên thửa đất tranh chấp này tT và
ông D3 sinh thêm 02 người con nữa là Trần Thị M, sinh năm 1977 và Trần Bình Ư,
sinh năm 1979. Ông D3, T cùng các con sinh sống ổn định trên mãnh đất này
đến năm 1983, thì ông D3 và T ly hôn. Ông D3 để lại 3 người con cho T chăm
sóc cùng một căn nhà tranh được dựng trên mảnh đất đó. Năm 1984, vì chăm sóc 3
đứa con cùng lúc quá khó khăn nên bà T chuyển về sống với nhà ngoại tại thôn G,
T (nay là xã N), tỉnh Quảng Trị. Năm 1985, bà T đồng ý cho cô ruột của ông D3
cụ Trần Thị T2 mượn đất để ở. Đến năm 2018, cụ T2 chết. Năm 2021, bà T đến Ủy
ban nhân dân xã T xin làm giấy chứng nhận sử dụng đất thì ông Trần Hữu N quay
về muốn giành quyền sử dụng đất ở khu đất trên với lý do làm nhà thờ cho ông
tổ tiên. Việc ông Trần Hữu N về trồng cây trên đất của T nhưng bà T không được
thông báo và không hề biết. Hiện nay, sau khi bà T2 mất có để lại một căn nhà trên
đất, được sự đồng ý của hai con gái của T2 Hoàng Thị D1 bà Hoàng Th
4
Q1, gia đình anh Trần Bình H là con trai của ông D3 vợ sau của ông D3, chưa
nơi ở, được mẹ bà cho về ở trên mảnh đất đó.
Khi Nhà nước chủ trương khai đăng đất tem ruột của ông D3
ông Trần Khánh M1 đã đứng ra kê khai và đứng tên trong sổ mục đất đai lưu giữ
tại chính quyền địa phương. Ông Trần Khánh M1 cũng đã đơn trình bày ý kiến
giao toàn bộ thửa đất ông M1 đã đứng tên lại cho Văn Thị T. T sinh
sống trên thửa đất này năm 1975, trong khi đó cụ Trần Gia B mất năm 1972, cụ bà
Lê Thị C mất năm 1978. Do đó, thửa đất này không phải là di sản của cụ Trần Gia
B cụ Thị C. Ông Trần Hữu N cũng không phải hàng thừa kế thứ nhất
hiện tại bà Trần Thị D, sinh năm 1928 con của hai cụ Trần Gia BLê Thị C vẫn
còn sống. Hơn nữa nếu là di sản thừa kế của cụ B cụ C thì cũng đã quá 30 năm
nên không quyền yêu cầu để chia thừa kế nữa. vậy, M đề nghị Tòa án
không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Hữu N về việc yêu cầu Tòa án
công nhận quyền sử dụng đất có tổng diện tích 2.961,4m
2
, tại thửa đất số 385, 386,
tờ bản đồ địa chính số 95 tại thôn H, xã N, tỉnh Quảng Trị di sản của cụ Trần Gia
B và cụ Thị C buộc Văn Thị T chấm dứt hành vi cản trở quyền sử dụng
đất đối với thửa đất này.
- Tại văn bản trình bày ý kiến ngày 23/5/2025, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan bà Trần Thị D trình bày: bà D là con đẻ của cụ Trần Gia B cụ Lê Thị
C. Nếu D được Tòa án chia cho di sản thừa kế của cha, mẹ để lại thì
giao cho cháu ông Trần Hữu N cháu nội đích tôn để quản lý, sử dụng, lập hồ
sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để xây dựng từ đường cho ba, mcủa
D.
- Tại văn bản trình bày ý kiến ngày 14/7/2025, đơn thay đổi ý kiến ngày
22/7/2025, văn bản trình bày ý kiến ngày 29/8/2025, người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan ông Trần Khánh M1 trình bày: ông M1 là cháu nội của cụ Trần Gia B và
cụ Thị C, là em ruột của ông Trần Khánh D3, ông D3 chồng Văn Thị T. Về
nguồn gốc thửa đất đang tranh chấp giữa ông N và bà T thì thửa đất này trước đây
là của ông, bà nội của ông M1. Sau khi giải phóng, năm 1975 thì vợ chồng bà Văn
Thị T và ông Trần Khánh D3 lập gia đình sinh sống trên thửa đất này. Đến khoảng
năm 1980 thì ông D3 bà T ly hôn, ông D3 để lại thửa đất nàytoàn bộ tài sản
cho T 3 người con của ông D3, T sinh sống, còn ông D3 đi nơi khác để
sống. Sau đó đến khoảng năm 1983 thì bà T đưa các con về nhà bố mẹ đẻ của bà T
thôn G, xã T (cũ) sinh sống để nhờ ông, ngoại chăm sóc cho các cháu. Trong
quá trình sinh sống nhà ngoại T lui tới để trồng trọt trông nom thửa đất này.
Ngoài T ra thì nhà của ông M1 gần thửa đất này nên ông cũng sử dụng thửa
đất này để trồng hoa màu để các vật dụng trong sinh hoạt ng thôn như xe bò,
xe kéo, cây cối dùng làm củi. Trong thời gian T thôn G, T thì ông M1
người hằng ngày trông coi mảnh đất này, có ai đến sử dụng hay lấn chiếm thì ông
M1 là người can ngăn, không cho họ sử dụng. Ngoài T và ông M1 sử dụng thửa
đất này tcòn thêm bà Trần Thị T2 ruột của ông M1 cùng sử dụng một
5
phần thửa đất này. Vào năm 1998, ông M1 đã khai, đăng thửa đất này với
UBND T , diện tích đăng khai 2.617m2, loại đất ONT và BHK, tên
người sử dụng đất ông Trần Khánh M1. Trước đây ông M1 ý kiến trình bày
ghi ngày 14/7/2025 nộp cho Tòa án đề nghị giao cho ông N một nửa thửa đất để làm
nhà thờ phái, còn lại một nửa thửa đất giao cho T. Ngày 22/7/2025 29/8/2025,
ông M1 có văn bản xin thay đổi ý kiến có nội dung như sau: Nếu Tòa án phân chia
thửa đất này cho ông M1 theo pháp luật thì ông M1 giao toàn bộ thửa đất 2.617m
2
cho bà Văn Thị T được sử dụng theo luật đất đai. Bà T được toàn quyền quyết định
đối với thửa đất này. Đối với cây ông Trần Hữu N trồng trên đất: Cách đây khoảng
7 đến 8 năm (năm 2017, 2018), ông cho ông Trần Hữu N trồng một lứa tràm, nay
tràm đã đến thời gian thu hoạch nên ông sẽ yêu cầu ông N thu hoạch tràm để trả lại
đất cho ông. Đây thỏa thuận giữa ông với ông N nên không liên quan đến việc
tranh chấp đất đai trong vụ án này. Bản thân ông hiện nay già yếu, đi lại khó khăn
nên ông đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt ông tại các phiên làm việc cũng như tại
phiên tòa.
Tại đơn xin xác nhận ngày 14/6/2025, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
bà Hoàng Thị D1 Hoàng Thị Q1 đều trình bày: Năm 1975, D1 Q1
đi lấy chồng xa nhà, mẹ của các bà là bà Trần Thị T2 là con của hai cụ Trần Gia B
cụ Thị C không con trai nên đã mượn đất của cụ B cụ C để xây dựng
nhà ở. Nay bà T2 đã qua đời, bà D1 và bà Q1 xin bàn giao lại đất và nhà ở cho ông
Trần Hữu N đsử dụng. Tuy nhiên sau đó, D1 Q1 văn bản thay đổi ý
kiến, cụ thể như sau: tại Đơn yêu cầu giải quyết ngày 19/7/2025, ngày 10/8/2025,
D1 Q1 đều trình bày: năm 2002 do bà T2 hoàn cảnh khó khăn nên đã xin về
trên mảnh đất hiện đang tranh chấp giữa ông N T, quá trình sinh sống T2
được Nhà nước hỗ trợ xây dựng 01 căn nhà tình nghĩa nằm trên một phần thửa đất.
Năm 2018 bà T2 mất, sau đó ông Trần Hữu N và ông Trần Khánh X nhiều lần yêu
cầu đòi lại đất muốn phá bỏ căn nhà tình nghĩa của bà T2. Nay các mong
muốn Tòa án xem xét giữ lại căn nhà tình nghĩa mà Nhà nước đã xây dựng cho m
D1 và bà Q1, để các bà làm nơi thờ cúng bà T2. Do điều kiện tuổi già, đi lại khó
khăn nên đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.
- Tại văn bản trình bày ý kiến ngày 25/5/2025, ngày 26/7/2025, người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Khánh X trình bày: Ông không đồng ý với
ý kiến của bà T về nguồn gốc thửa đất tranh chấp, nội dung phía bị đơn bà Văn Thị
T trình bày bịa đặt không đúng thực tế. Thửa đất đang tranh chấp di sản của
hai cụ Trần Gia B cụ Thị C. Ông có nguyện vọng nếu được giao phần đất thừa
kế của cụ B cụ C thì ông sẽ giao lại cho ông Trần Hữu N quản lý, sử dụng, lập
hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để xây dựng từ đường. Ông đề nghị
Tòa án giải quyết vụ án vắng mặt ông.
- Tại văn bản trình bày ý kiến ngày 23/5/2025, ngày 24/7/2025, người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Khắc M3 trình bày: ông không đồng ý với
ý kiến của bà T về nguồn gốc thửa đất tranh chấp, nội dung phía bị đơn bà Văn Thị
6
T trình bày bịa đặt không đúng thực tế. Thửa đất đang tranh chấp di sản của
hai cụ Trần Gia B cụ Thị C. Ông có nguyện vọng nếu được giao phần đất thừa
kế của cụ B cụ C thì ông sẽ giao lại cho ông Trần Hữu N quản lý, sử dụng, lập
hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để xây dựng từ đường. Ông đề nghị
Tòa án giải quyết vụ án vắng mặt ông.
- Tại văn bản trình bày ý kiến ngày 23/5/2025, ngày 26/7/2025, người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị M2 trình bày: Thửa đất đang tranh chấp
là di sản của hai cụ Trần Gia B và cụ Lê Thị C. Bà nguyện vọng nếu được giao
phần đất thừa kế của cụ B cụ C thì sẽ giao lại cho ông Trần Hữu N quản lý,
sử dụng, lập hồ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để xây dựng từ đường.
đề nghị Tòa án giải quyết vụ án vắng mặt bà. Tuy nhiên, sau đó M2 văn
bản trình bày gửi cho Tòa án, thay đổi ý kiến như sau: nếu Tòa án giải quyết phân
chia thửa đất thì bà không nhận mà giao cho Văn Thị T một nửa thửa đất, giao
cho ông Trần Hữu N một nửa thửa đất để làm nhà thờ Phái. Bà M2 đề nghị Tòa án
giải quyết vắng mặt bà.
- Tại văn đơn trình bày ý kiến ngày 15/7/2025, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan Trần Thị L trình bày: L cháu của hai cụ Trần Gia B cụ Thị
C. Bà có nguyện vọng nếu được giao phần đất thừa kế của cụ B và cụ C thì bà giao
cho bà Văn Thị T một nửa thửa đất, giao cho ông Trần Hữu N một nửa thửa đất để
làm nhà thờ Phái. L đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt bà.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị H1 trình bày: Chồng
ông Trần Bình H, ông H con trai của ông Trần Khánh D3, vợ của ông
Trần Bình H. Năm 2020 vợ chồng mượn nhà T2 để sinh sống, sau đó do
nhà xuống cấp, dột nát nên vợ chồng xây dựng móng nhà vào năm 2023 để
sửa chữa nhà lại để ở, vchồng bỏ tiền ra xây móng nhà khoảng 30.000.000
đồng. Sau này Tòa án giao đất cho ai sử dụng thì sẽ xin họ hỗ trợ lại cho vợ
chồng số tiền 30.000.000 đồng. Nếu họ không đồng ý thì vợ chồng sẽ tháo dỡ
móng nhà đã xây để trả lại đất cho họ. H1 đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt
bà.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vc 6 - Qung Tr tại
phiên tòa:
Về việc tuân theo pháp luật: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Thẩm phán đã
thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sựTại phiên tòa Hội đồng xét xử,
Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của pháp luật Tố tụng dân sự.
Các đương sự: Nguyên đơn, bị đơn, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đã chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về đường lối giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét
xử: Căn cứ khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a, c khoản 1 Điều
39, khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 157, 158 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 612 Bộ
luật Dân sự 2015; Điều 95, 166, 170, 203 Luật Đất đai năm 2013; điểm đ khoản 1
7
Điều 12, 14 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH1430 tháng 12 năm 2016 quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lphí Tòa án của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của ông Trần Hữu N về việc “ Công nhận quyền sử dụng đất tại thửa đất
số 385, tờ bản đồ địa chính số 13 tại thôn H, T, huyện T (nay là thôn H, N),
tỉnh Quảng Trị với tổng diện tích 2.998m
2
là di sản của cụ Trần Gia B cụ Lê Thị
C, giao toàn bộ di sản của cụ B cụ C cho ông Trần Hữu N người trực tiếp
quản lý, sử dụng và liên hệ cơ quan thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất theo quy định của pháp luật. Buộc Văn Thị T chấm dứt hành vi cản trở
quyền sử dụng đất đối với thửa đất này”.
V chi phí t tng: buc ông Trần Hữu N phi chu chi phí xem xét thẩm định
ti ch theo quy định ca pháp lut.
V án phí: Ông Trần Hữu N thuộc đối tượng người cao tuổi, đơn xin
miễn nộp tiền án phí nên được miễn án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều
12 Điều 14 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội.
NHẬN ĐỊNH CA TÒA ÁN:
[1] V th tc t tng: Ngày 05/11/2024, Tòa án nhân dân huyện Triệu Phong
nhận được đơn khởi kiện của ông Trần Hữu N về việc yêu cầu Tòa án “Công nhận
quyền sử dụng đất tại thửa đất số 385, tờ bản đồ địa chính s13 tại thôn H, T,
huyện T (nay là thôn H, xã N), tỉnh Quảng Trị với tổng diện tích 2.998m
2
là di sản
của cTrần Gia B cụ Thị C (diện tích Tòa án tiến hành xem xét, thẩm định
2.961,4m
2
đất, tại thửa đất số 385, 386, tờ bản đồ địa chính số 95); giao toàn bộ di
sản của cụ B cụ C cho ông Trần Hữu N người trực tiếp quản lý, sử dụng
liên hệ quan thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy
định của pháp luật. Buộc Văn Thị T chấm dứt hành vi cản trquyền sử dụng đất
đối với thửa đất này, do quá trình ông Trần Hữu N lập hồ cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất thì bà Văn Thị T đơn gửi đến UBND xã T tranh chấp, cản tr
ông Trần Hữu N trong việc làm hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa
đất này. Do đó, Tòa án xác định quan hệ tranh chấp Yêu cầu công nhận quyền
sử dụng đấtdi sản thừa kế và tranh chấp quyền sử dụng đất”. Ngày 28/4/2025,
Tòa án thụ lý vụ án. Bị đơn là bà Văn Thị T hộ khẩu cũng như chỗ tại Thôn G,
N (xã T cũ), tnh Qung Trị; đối tượng tranh chấp là bất động sản có địa chỉ tại
Thôn H, N (xã T cũ), tỉnh Qung Tr. Do vy Tòa án nhân dân khu vc 6 - Qung
Tr thụ vụ án giải quyết đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 9 Điều
26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a, c khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự. Sau
khi thụ vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải nhưng không thành nên Tòa án đã đưa
vụ án ra xét xử.
[2] Về nội dung: Xét yêu cầu khởi kiện của ông Trần Hữu N về việc đề nghị
a án xem xét giải quyết: Công nhận quyền sử dụng đất di sản thừa kế của cụ
Trần Gia B cụ Lê Thị C để lại, tại thửa đất số 385, tờ bản đồ địa chính số 13 tại
8
thôn H, N, tỉnh Quảng Trị với tổng diện tích 2.998m
2
(diện tích Tòa án tiến hành
xem xét, thẩm định là 2.961,4m
2
đất), giao toàn bộ di sản của cụ B và cụ C cho ông
Trần Hữu N người trực tiếp quản lý, sử dụng liên hệ quan thẩm quyền
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Buộc Văn
Thị T chấm dứt hành vi cản trở quyền sử dụng đất đối với thửa đất này. Hội đồng
xét xử thấy rằng: Thửa đất này nguồn gốc do cụ Trần Gia B cụ Lê Thị
C khai hoang trước năm 1975. Sau đó, cụ B cụ C chuyển đi nơi khác sinh sống
qua đời. Từ năm 1975 trở đi vợ chồng Văn Thị Tông Trần Khánh D3 (ông
D3 cháu nội của cụ B cụ C) kết hôn sinh sống trên thửa đất này. Sau đó,
năm 2002 bà Trần Thị T2 (con ruột của cụ B và cụ C) có sử dụng 01 phần của thửa
đất để xây nhà ở, song song với việc bà Văn Thị T và bà Trần Thị T2 sử dụng thửa
đất này thì còn ông Trần Khánh M1 (là em của ông D3) trông coi và sử dụng
thửa đất này. Kết quả xác minh của Tòa án tại UBND N ngày 25/7/2025 cho
thấy: Thửa đất đang tranh chấp giữa ông Trần Khánh M1 và bà Văn Thị T tại thôn
H, xã T nay là thôn H xã N, tỉnh Quảng Trị được hộ ông Trần Khánh M1 hộ bà
Trần Thị T2 đăng khai. Trong đó, ông M1 đã đăng khai thửa đất số 385,
tờ bản đồ số 13 với diện tích 2.617m
2
và hộ bà T2 đăng ký kê khai thửa đất số 386,
tờ bản đồ số 13 diện tích 254m
2
. Như vậy thửa đất trên đã được ông Trần
Khánh M1 Trần Thị T2 khai, đăng ký theo quy định tại Điều 95 Luật đất
đai năm 2013. Ngoài ra, Tòa án cũng phối hợp với chính quyền địa phương xác
minh những người dân sinh sống gần thửa đất ông N và T tranh chấp, họ cho
biết: Họ hàng xóm sống gần thửa đất tranh chấp giữa ông N T. Quá trình
sinh sống gần thửa đất này họ thấy: Vợ chồng bà T làm nhà, sinh sống trên thửa đất
này, sau đó đến Trần Thị T2 làm nhà trên thửa đất này. Họ không thấy cụ B
cụ C sinh sống trên thửa đất này. Như vậy thửa đất này cụ Trần Gia B và cụ Thị
C khai hoang trước năm 1975. Tuy nhiên từ sau năm 1975 thì hai cụ không còn s
dụng thửa đất này nữa mà người sử dụng đất là gia đình bà Văn Thị T, bà Trần Thị
T2, ông Trần Khánh M1. Đến năm 2018, ông Trần Khánh M1 Trần Thị T2 đã
làm thủ tục kê khai, đăng ký chủ sử dụng đất đối với toàn bộ thửa đất này và được
ghi vào sổ mục kê đất đai, quyển số 001 m 2018 của UBND T nay là N theo
quy định tại Điều 95 Luật đất đai năm 2013. Do đó thửa đất này không phải di
sản thừa kế của hai cụ Trần Gia B Thị C theo quy định tại Điều 612 Bộ luật
dân sự 2015. vậy, yêu cầu của ông Trần Hữu N về việc: “Công nhận quyền sử
dụng đất tổng diện tích 2.961,4m
2
đất, tại thửa đất số 385, 386, tờ bản đồ địa
chính số 95 tại thôn H, N, tỉnh Quảng Trị di sản của cụ Trần Gia B cụ
Thị C (kết quả đo đạc trước đây2.998m
2
, thửa đất số 385, tờ bản đồ địa chính số
13 tại thôn H, T) không sở nên không được chấp nhận như ý kiến đề
nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 6- Quảng Trị tại phiên tòa là
căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Đối với việc ông Trần Hữu N đã trồng tràm trên thửa đất tranh chấp được
ông Trần Khánh M1 và Trần Thị T2 khai, đăng ký vào năm 2018, Hội đồng
xét xử thấy đây là việc thỏa thuận giữa ông N và ông M1 và gia đình T2. Trường
9
hợp các bên có tranh chấp về việc trồng cây tràm trên đất thì có thể yêu cầu Tòa án
giải quyết bằng một vụ án dân sự khác.
[4] Đối với việc vợ chồng ông Trần Bình H Nguyễn Thị H1 đã xây
dựng một móng ntrên thửa đất tranh chấp (móng nhà được xây ngay sau nhà của
Trần Thị T2) được bà Trần Thị T2 khai, đăng ký vào năm 2018, Hội đồng xét
xử thấy đây việc thỏa thuận giữa gia đình T2 vợ chồng ông H H1.
Trường hợp các bên tranh chấp về việc xây dựng móng nhà thì thể yêu cầu
Tòa án giải quyết bằng một vụ án dân sự khác.
[5] Về chi phí xem xét thẩm định tại chổ: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn ông Trần Hữu N không được Tòa án chấp nhận, do đó ông N phải chịu khoản
chi phí xem xét thẩm định tại chỗ ngày 26/6/2025 với số tiền là 3.820.000 đồng theo
quy định tại khoản 1 Điều 157 Bộ luật Tố tụng dân sự.
6] V án phí: Yêu cu khi kin của nguyên đơn không đưc chp nên ông
Trần Hữu N phi chu án phí dân s thẩm 300.000 đồng theo quy đnh ti
khoản 1 Điều 147 B lut T tng dân s điểm a khoản 1 Điều 24, khoản 1 Điều
26, đim a khoản 2 Điu 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH1430 tháng 12 năm
2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản và sử dụng án phí lệ phí Tòa án. Tuy nhiên ông Trần Hữu N thuộc đối
tượng người cao tuổi, đơn xin miễn nộp tiền án phí nên được miễn án ptheo
quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Điều 14 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Vì các l trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 9 Điều 26, Điều 35, điểm a, c khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều
147, khoản 1 Điều 157, 158 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2025;
Điều 612 Bộ luật Dân sự 2015; Điều 95, 166, 170, 203 Luật đất đai năm 2013; điểm
đ khoản 1 Điều 12, 14 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH1430 tháng 12 năm 2016
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Hữu N về việc yêu cầu
Tòa án: Công nhận quyền sử dụng đất tổng diện tích 2.961,4m
2
đất, tại thửa
đất số 385, 386, tờ bản đồ địa chính số 95 tại thôn H, xã N, tỉnh Quảng Trị di sản
của cụ Trần Gia B cụ Thị C (kết quả đo đạc trước đây là 2.998m
2
, thửa đất
số 385, tờ bản đồ địa chính số 13 tại thôn H, xã T); giao toàn bộ di sản của cụ B và
cụ C cho ông Trần Hữu N người trực tiếp quản lý, sử dụng và liên hệ cơ quan có
thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Buộc Văn Thị T chấm dứt hành vi cản trở quyền của những người sdụng đất
thuộc hàng thừa kế theo pháp luật của cụ Trần Gia B và cụ Lê Thị C.
2. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Ông Trần Hữu N phải chịu chi phí
xem xét thẩm định tại chổ 3.820.000 đồng (ba triệu tám trăm hai mươi ngàn
đồng). Ông N đã nộp đủ tiền xem xét thẩm định tại chỗ.
10
3. Về án phí: Ông Trần Hữu N người cao tuổi đơn xin miễn nộp tiền
tạm ứng án phí nên không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn mặt tại phiên tòa quyền
kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong
thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy
định của pháp luật.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Quảng Tr;
- VKSND khu vc 6 - Qung Tr;
- Phòng THADS khu vc 6 - Qung Tr;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phan Đăng Khoa
Tải về
Bản án số 18/2025/DS-ST Bản án số 18/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 18/2025/DS-ST Bản án số 18/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất