Bản án số 18/2024/HNGĐ-ST ngày 25/09/2024 của TAND huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 18/2024/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 18/2024/HNGĐ-ST ngày 25/09/2024 của TAND huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Văn Quan (TAND tỉnh Lạng Sơn)
Số hiệu: 18/2024/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 25/09/2024
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chị Chu Thị H và anh Hứa Văn E trước khi cưới không được tìm hiểu nhau, do bố mẹ sắp đặt, nhưng đều đồng ý tiến tới hôn nhân. Kết hôn trên cơ sở tự nguyện, không bị ép buộc, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã X, huyện C, tỉnh Lạng Sơn vào ngày 16/11/2015. Trong quá trình chung sống tình cảm vợ chồng không hạnh phúc, không có tình cảm, có nhiều mâu thuẫn phát sinh, do anh Hứa Văn E thường xuyên rượu chè không chịu tu chí làm ăn và đánh chị Chu Thị H lúc đó con mới được 6 tháng tuổi, đánh chị Chu Thị H lần thứ 2 lúc đó con được 2 tuổi, vào đầu năm 2018 Chu Thị H đi làm thời vụ ở Bắc Giang, đến năm 2020 chị Chu Thị H lại tiếp tục đi công ty Luxhare tại Bắc Giang, thu nhập mỗi tháng là 6.000.000 đồng, nếu làm tăng ca là 10 triệu đồng /1 tháng. Từ khi đi làm công ty chị Chu Thị H vẫn gửi tiền về nuôi con và gửi cho anh Hứa Văn E, mỗi lần gửi 4 triệu đồng/01 tháng, chị Chu Thị H về thăm con 2 tuần 1 lần, đến giữa năm 2021 chị Chu Thị H không về nhà anh Hứa Văn E lần nào nữa, do anh Hứa Văn E dọa đánh chị, nên chị về sợ anh Hứa Văn E đánh. Do vậy chị Chu Thị H và anh Hứa Văn E đã sống ly thân từ năm 2021 cho đến nay, từ khi ky thân chị Chu Thị H đã chuyển về sinh sống bên gia đình nhà mẹ đẻ tại Thôn L, xã X, huyện C, tỉnh Lạng Sơn từ tháng 06/2021 cho đến nay. Từ khi ly thân cho đến nay anh Hứa Văn E có sang nhà ngoại của chị nhưng toàn dọa nạt đánh chị Chu Thị H, được khoảng 2 năm nay không hỏi thăm lần nào nữa. Nay chị Chu Thị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, nên xin được ly hôn với anh Hứa Văn E. Đối với khoản tiền sính lễ ngày cưới anh Hứa Văn E yêu cầu 50 triệu đồng chị Chu Thị H không nhất trí trả, vì chị Chu Thị H và anh Hứa Văn E kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN VĂN QUAN
TỈNH LẠNG SƠN
Bản án số: 18/2024/HNGĐ-ST
Ngày: 25-9-2024
V/v xin ly n, tranh chp
ni con chung yêu cu tin
sính l ngày cưi khi ly hôn.
CỘNG A HỘI CHNGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tdo - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN QUAN - TỈNH LẠNG SƠN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Nông Bá Hiệp
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Phùng Văn Thời
Ông Tăng Văn Thoại
- Thư phiên toà: Lục Quỳnh Trâm Thư Toà án nhân dân
huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn
tham gia phiên tòa: Ông Nông Quang Thịnh - Kiểm sát viên.
Ngày 18 tháng 9 năm 2024 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Văn Quan,
tỉnh Lạng Sơn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ số
54/2024/TLST- HNGĐ ngày 19 tháng 7 năm 2024 về việc “Ly hôn, tranh chấp
nuôi con và yêu cầu tiền sính lễ này cưới khi ly hôn”. Theo quyết định đưa vụ án
ra xét xsố 18/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 8 năm 2024; Quyết định
hoãn phiên tòa số 13/QĐST-HNGĐ ngày 18/9/2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Chu Thị H, sinh năm 1997. Địa chỉ: Thôn K, T,
huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Chỗ hiện nay: Thôn L, X, huyện C, tỉnh Lạng
Sơn. Có mặt.
- Bị đơn: Anh Hứa Văn E, sinh năm 1991. Địa chỉ: Thôn K, T, huyện
V, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.
- Người làm chứng:
1. Ông Hứa Văn B, sinh năm 1956, địa chỉ: Thôn K, T, huyện V, tỉnh
Lạng Sơn, vng mt, có đơn xin xét xử vắng mặt.
2. Bà Lý Th C, sinh năm 1958. Địa chỉ:
Thôn L, xã X, huyện C, tỉnh Lạng
Sơn, vng mặt, có đơn xin xét x vắng mt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
Theo đơn khởi kiện ngày 11/07/2024, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên
đơn chị Chu Thị H trình bày:
Chị Chu Thị H anh Hứa Văn E trước khi cưới không được m hiểu
nhau, do bố mẹ sắp đặt, nhưng đều đồng ý tiến tới hôn nhân. Kết hôn trên sở
tự nguyện, không bép buộc, đăng kết hôn tại Ủy ban nhân dân X,
huyện C, tỉnh Lạng Sơn vào ngày 16/11/2015. Trong quá trình chung sống tình
cảm vợ chồng không hạnh phúc, không tình cảm, nhiều mâu thuẫn phát
sinh, do anh Hứa Văn E thường xuyên rượu chè không chịu tu chí làm ăn
đánh chị Chu Thị H lúc đó con mới được 6 tháng tuổi, đánh chị Chu Thị H lần
thứ 2 lúc đó con được 2 tuổi, vào đầu năm 2018 Chu Thị H đi làm thời vụ ở Bắc
Giang, đến năm 2020 chị Chu Thị H lại tiếp tục đi công ty Luxhare tại Bắc
Giang, thu nhập mỗi tháng 6.000.000 đồng, nếu làm tăng ca 10 triệu đồng
/1 tháng. Từ khi đi làm công ty chị Chu Thị H vẫn gửi tiền về nuôi con và gửi
cho anh Hứa Văn E, mỗi lần gửi 4 triệu đồng/01 tháng, chị Chu Thị H về thăm
con 2 tuần 1 lần, đến giữa năm 2021 chị Chu Thị H không về nhà anh Hứa Văn
E lần nào nữa, do anh Hứa Văn E dọa đánh chị, nên chị về sợ anh Hứa Văn E
đánh. Do vậy chị Chu Thị H và anh Hứa Văn E đã sống ly thân từ năm 2021 cho
đến nay, tkhi ky thân chị Chu Thị H đã chuyển về sinh sống bên gia đình nhà
mẹ đẻ tại Thôn L, X, huyện C, tỉnh Lạng n từ tháng 06/2021 cho đến nay.
Từ khi ly thân cho đến nay anh Hứa Văn E sang nhà ngoại của chị nhưng
toàn dọa nạt đánh chị Chu Thị H, được khoảng 2 năm nay không hỏi thăm lần
nào nữa. Nay chChu Thị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, nên xin
được ly hôn với anh Hứa Văn E. Đối với khoản tiền sính lễ ngày cưới anh Hứa
Văn E yêu cầu 50 triệu đồng chị Chu Thị H không nhất trí trả, chị Chu Thị H
anh Hứa Văn E kết hôn trên sở tự nguyện, đề nghị Tòa án giải quyết theo
quy định của pháp luật.
Về con chung: Chị Chu ThH anh Hứa Văn E có 01 người con chung
Hứa Văn T, sinh ngày 11/10/2015, hiện đang ở với anh Hứa Văn E tại địa chỉ:
Thôn K, T, huyện V, cháu đang học lớp 4 tại trường tiểu học N, xã T. Khi ly
hôn anh Hứa Văn E là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con
chung cho đến khi con đủ 18 tuổi. Tại đơn khởi kiện chị Chu Thị H tự nguyện
mức cấp dưỡng nuôi con 500.000đ/1 tháng, tại phiên họp chị Chu Thị H thay
đổi mức cấp dưỡng nuôi con với số tiền 1.000.000đ/1 tháng/01 cháu, phương
thức cấp dưỡng theo từng tháng cho đến khi con đủ 18 tuổi.
Vi sản chung: Kng có
Về nợ chung: Không có.
* Tại đơn yêu cầu đối với khoản tiền sính lễ ngày cưới ngày 26/07/2024,
bản tự khai và tại phiên tòa anh Hứa Văn E trình bày:
Về thời gian kết hôn giữa anh và chị Chu Thị H đúng như chị Chu Thị H đã
trình bày, anh Hứa Văn E chị Chu Thị H được hai bên gia đình tổ chức cưới
vào cuối năm 2014, trước khi cưới anh Hứa Văn E chị Chu Thị H không
được tìm hiểu nhau do bố mẹ sắp đặt, nhưng đều đồng ý tiến tới hôn nhân.
3
Chúng tôi kết hôn trên stự nguyện, không bị ép buộc, đăng kết hôn
tại Ủy ban nhân dân X, huyện C, tỉnh Lạng Sơn vào ngày 16/11/2015. Sau
khi cưới xong chị Chu Thị H vhẳn với gia đình anh Hứa Văn E, trong quá
trình chung sống với nhau tình cảm vợ thời gian đầu hạnh phúc, tại phiên tòa
anh Hứa Văn E thừa nhận hành vi túm tóc chị Chu Thị H 2 lần nhưng anh
cho rằng không được đánh. Sau đó chị Hường đi công ty Bắc Giang từ 2019
thời điểm đó đang bị dịch covid nên chị Chu Thị H không về nhà lần nào cho
đến nay chị Chu Thị H ng không về thăm con bao giờ, anh Hứa Văn E gọi
điện cho chị Chu Thị H đều không được do chị Chu Thị H chặn số điện thoại,
chặn cả zalo, fccebok của anh. Anh Hứa Văn E các định vợ chồng anh đã sống
ly thân từ năm 2019 cho đến nay, anh Hứa Văn E xác định tình cảm vợ chồng
vẫn n, mong muốn chChu ThH quay về đoàn tụ cùng gia đình để nuôi dạy
con trưởng thành.
Về con chung: Anh Hứa Văn E và chị Chu Thị H có 01 người con chung
Hứa Văn T, sinh ngày 11/10/2015, hiện đang với anh Hứa Văn E tại địa chỉ:
Thôn K, T, huyện V, cháu đang học lớp 4 tại trường tiểu học N, T, huyện
Văn Quan.
Khi ly hôn anh Hứa Văn E người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo
dục cháu Hứa Văn T cho đến khi con đủ 18 tuổi yêu cầu chị Chu Thị H phải
cấp dưỡng nuôi con mức 3.000.000đ/01 tháng cho đến khi con đủ 18 tuổi,
phương thức cấp dưỡng theo tháng.
- Về tài sản chung: Không có.
- Về nợ chung: Không có.
Ngoài ra anh Hứa Văn E còn yêu cầu chị Chu Thị H trả tiền sinh l khi
cưới với số tiền là 50 triệu đồng thì mới nhất trí ly hôn.
* Tại biên bản lấy lời khai người làm chứng ông Hứa Văn B trình bày: Ông
Húa Văn Bâu bố đẻ của anh Hứa n E, vào tháng 10/2014 gia đình ông tổ
chức đám cưới cho anh Hứa n E chị Chu Thị H, ông Hứa Văn B người
được đi hỏi cưới, c con có đăng kết hôn tại UBND X, huyện C, sau khi
ới xong hai con không có mâu thuẫn gì xảy ra, được một thời gian chị Chu Thị
H đi công ty gửi tiền về nhà được 2 lần, một lần được 2 triệu đồng một lần
được 3 triệu đồng, từ đó không gửi tiền về nhà lần nào nữa chị Chu Thị H cũng
không về nhà lần nào nữa, con chung có 01 con tên Hứan T hiện nay đang học
lớp 4 được ông bà, và bác đưa đón hàng ngày, việc ly hôn của 2 con do hai con tự
quyết định. Trong quá trình chung sống anh Hứa n E chị Chu Thị H chưa
tạo lập được tài sản ng không vay nợ ai. Đối với khoản tiền sinh lễ ông
Hứa Văn B được đưa sang nhà gái là 22 triệu đồng vào tng 9/2014, đề nghị Tòa
án giải quyết theo quy định của pháp luật, nếu được thanh toán khoản tiền này thì
trả cho anh Hứa Văn E.
* Tại biên bản lấy lời khai người làm chứng Thị C trình y: Lý
Thị C mẹ đẻ của chị Chu Thị H và gia đình được tổ chức cưới cho con gái
và anh Hứa Văn E vào tháng 12/2014 khi cưới không được tìm hiểu trước mà do
4
bố mẹ sắp đặt, hai con nhất trí tiến tới hôn nhân trên sở tự nguyện không bị
ép buộc. Trong quá trình chung sống anh Hứa Văn E gia đình cũng không
quan tâm đến con gái , anh Hứa Văn E thậm chí n đánh chị Chu Thị H,
nên chị Chu Thị H mới b nhà ra đi không dám quay về, anh Hứa Văn E sang
bên nhà cách đây 2 năm (từ năm 2022) sang ăn cưới chứ không phải sang đón
con gái , còn dọa nạt con gái nếu không về anh Hứa Văn E gặp đâu sẽ
chém, giết con gái , nên chị Chu Thị H không dám về với anh Hứa Văn E nữa.
Trong thời gian chuẩn bị tổ chức đám cưới theo phong tục địa phương nhà
trai đem tiền sang nhà gái là 22 triệu đồng, do bố của anh Hứa Văn E là ông Hứa
Văn B đưa trực tiếp cho bà Thị C số tiền này khoảng tháng 11/2014 cách
ngày cưới khoảng 20 ngày. Thị C đã dùng số tiền này mua sắm, giường,
tủ, chăn, màn, gối, đệm, khăn mặt, chậu, ấm chén, phích, bóng điện, dây điện,
mâm, nồi và 1,5 chỉ vàng cho hai vợ chồng anh Hứa Văn E vừa hết số tiền 22
triệu đồng, nay anh Hứa Văn E yêu cầu trả lại 50 triệu đồng tiền sính lễ là không
căn cứ chỉ được nhận từ tay ông Hứa Văn B 22 triệu đồng, số tiền
này gia đình mua sắm đồ cưới đem hết sang nhà trai mọi thứ vẫn bên nhà
trai, con gái không lấy một thứ về cả, còn số vàng 1,5 chỉ vàng anh Hứa
Văn E đã mang đi n để trả nợ từ khi mới cưới xong. Thị C không chấp
nhận yêu cầu khoản tiền này của anh Hứa Văn E. Còn vquan hệ hôn nhân con
muốn ly hôn hay về với anh Hứa Văn E là do chị Chu Thị H tự quyết định kể
cả con chung cũng do chị Chu Thị H và anh Hứa Văn E tự định đoạt.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 23/8/2024, cháu Hứa Văn T có ý kiến nếu bố
mẹ ly hôn thì có nguyện vọng được sống cùng bố Hứa Văn E.
Tòa án nhân dân huyện Văn Quan đã tiến hành xác minh tại địa phương nơi
các đương sự trú. Tại Công văn số 827/UBND ngày 26/8/2023 của Ủy ban
nhân dân X, huyện C cho biết chị Chu Thị H anh Hứa Văn E đăng
kết hôn ngày 16/11/2015 đăng kết hôn tại Ủy ban nhân dân X, huyện C,
tỉnh Lạng n. Sau khi đăng kết hôn xong chị Chu ThH anh Hứa Văn E
không sinh sống trên địa bàn Xuân Long, huyện Cao Lộc; Tại Công văn số
510/UBND ngày 20/8/2024 của Ủy ban nhân dân xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn
cho biết chị Chu Thị H anh Hứa Văn E đang sinh sống tại Thôn K, T,
huyện V, tỉnh Lạng Sơn, Ủy ban nhân dân xã T cho biết trong quá trình chung
sống giữa chị Chu Thị H anh Hứa Văn E mâu thuẫn ly thân hay không
Ủy ban nhân dân chưa được hòa giải mâu thuẫn giữa hai vợ chồng chị Chu
Thị H anh Ha Văn E. Chị Chu Thị H anh Hứa Văn E 01 con chung là
Hứa Văn T, sinh ngày 11/10/2015. Hiện nay cháu đang ở với anh Hứa Văn E tại
Thôn K, T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Mức tối thiểu để đảm bảo chăm sóc,
nuôi dưỡng, học tập, phát trình bình thường đối với trẻ em đang độ tuổi đến
trường ở cấp mầm non đến hết tiểu học có mức 1.500.000đ/1 trẻ/ 1 tháng.
5
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu: Từ khi thụ vụ án đến trước
khi xét xử, Thẩm phán đã tiến hành tố tụng đúng trình tự thủ tục, tiến hành thu
thập chứng cứ, hướng dẫn đương sự viết tự khai, lấy lời khai nguyên đơn, con
chưa thành niên, tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ, quyết định đưa vụ án ra xét xử chuyển hồ cho Viện kiểm sát
nghiên cứu đúng quy định. Quá trình tiến hành tố tụng tại phiên tòa Thẩm phán,
Hội thẩm nhân dân, Thư Tòa án thực hiện đúng quy định của pháp luật.
Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng quyền nghĩa vụ tố tụng theo quy định
của pháp luật. Quá trình kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội
đồng xét xử, Viện kiểm sát không kiến nghị gì.
Về việc giải quyết vụ án: Đnghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của
chị Chu Thị H, xử cho chị Chu ThH được ly hôn với anh Hứa Văn E. Về con
chung, giao cho anh Hứa Văn E trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con
chung cháu Hứa Văn T, sinh ngày 11/10/2015. Buộc chị Chu Thị H phải
trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung bằng ½ mức lương tối thiểu 2.340.000
đồng do Nhà nước quy định cho đến khi con đủ 18 tuổi, phương thức cấp dưỡng
theo tháng. Tại phiên tòa chị Chu Thị H nhất trí cấp dưỡng 1.200.000
đồng/tháng, đề nghị Hội đồng xét x chấp nhận. Về tài sản chung, cho vay
chung: Không có, về vay nợ chung: Không có. Anh Hứa Văn E yêu cầu chị Chu
Thị H phải trả khoản tiền sính lễ 50 triệu đồng không phù hợp không
căn cứ, nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận đối với yêu cầu này của
bị đơn.
Về án phí: Nguyên đơn chị Chu Thị H thuộc hộ nghèo và là người dân tộc
thiểu số, trú điều kiện kinh tế - hội đặc biệt khó khăn, thuộc diện
được miễn án phí thẩm. Anh Hứa Văn E phải chịu án phí thẩm đối với số
tiền sinh lễ yêu cầu 50 triệu đồng không được chấp nhận tuy nhiên anh và anh
Hứa Văn E thuộc hộ nghèo người n tộc thiểu số, cư trú điều kiện
kinh tế - hội đặc biệt khó khăn, thuộc diện được miễn án phí thẩm. Do vậy
chị Chu ThH anh Hứa n E thuộc diện được miễn án phí thẩm được
miễn án phí theo điểm đ, khoản 1, Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14
của Quốc hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án được
thẩm tra tại phiên tòa căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát
biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[2] Về thủ tục tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp ly hôn nuôi con chung,
bị đơn nơi trú tại Thôn K, T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn nên thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Văn Quan theo quy định tại khoản
1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân
sự. Người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã đầy đủ lời khai, ý kiến
trình bày trong hồ đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1, khoản 2
6
Điều 229 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xvắng mặt
người làm chứng.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa chị Chu Thị H anh Hứa Văn
E hợp pháp, trên stự nguyện đăng kết hôn ngày 16/11/2015 tại
Ủy ban nhân dân xã X, huyện C, tỉnh Lạng Sơn.
[4] Xét yêu cầu xin ly n của nguyên đơn chị Chu Thị H thấy rằng chị
Chu Thị H anh Hứa Văn E trước khi kết hôn không được tự do tìm hiểu, mà
do bố mẹ sắp đặt nhưng nhất trí kết hôn trên sở tự nguyện. Tuy nhiên, cuộc
sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, do anh Hứa Văn E hàng ngày thường
uống rượu, không tu chí làm ăn, không quan tâm vcon tại phiên tòa anh
Hứa Văn E thừa nhận hành vi bạo lực gia đình đối với chChu Thị H 2 lần,
như vậy giữa chị Chu Thị H và anh Hứa Văn E mâu thuẫn nên chị Chu Thị H
đã về nhà mẹ đẻ dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày càng mâu thuẫn trầm trọng,
mục đích hôn nhân không đạt được đã sống ly thân từ năm 2021 đến nay
không thể hàn gắn. Do vậy thấy rằng việc anh Hứa Văn E không chấp nhận yêu
cầu xin được ly hôn không căn cứ, không đưa ra được giải pháp để hàn
gắn tình cảm vợ chồng. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị
Chu Thị H, xử cho chị Chu Thị H ly hôn anh Hứa Văn E xét thấy việc cho vợ
chồng về đoàn tụ skhông đảm bảo được cuộc sống hạnh phúc, không đảm bảo
được mục đích của hôn nhân.
[5] Về con chung: Chị Chu Thị H anh Hứa Văn E 01 con chung
cháu Hứa Văn T, sinh ngày 11/10/2015. Anh Hứa Văn E yêu cầu được trực tiếp
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung cho đến khi con đủ 18 tuổi. Xét thấy
hiện tại các cháu sinh sống, học tập ổn định tại Thôn K, xã T, huyện V, đồng
thời anh Hứa Văn E cũng có chỗ ổn định, từ khi vợ chồng ly thân cho đến nay
cũng đều do một mình anh Hứa Văn E bố mẹ anh Hứa Văn E hỗ trợ nuôi
dưỡng cháu Hứa Văn T. Việc giao con cho anh Eng nuôi dưỡng cũng phù hợp
với nguyện vọng của con khi bố mẹ ly hôn, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh
kinh tế của anh Hứa Văn E và đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho con chưa
thành niên khi bố mẹ ly hôn. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bị
đơn, giao cho anh Hứa Văn E trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục các cháu
Hứa Văn T cho đến khi con đủ 18 tuổi.
[6] Về cấp dưỡng nuôi con: Xét yêu cầu cấp dưỡng nuôi con của anh Hứa
Văn E chính đáng vì việc nuôi dưỡng con chung là quyền và nghĩa vụ của anh
Hứa Văn E và chị Chu Thị H. Nhưng xét yêu cầu cấp dưỡng nuôi con với số tiền
3.000.000đ/1 tháng của anh Hứa Văn E quá cao không phù hợp với điều kiện
hoàn cảnh của hai bên, cũng nmức sống tại địa phương, Hội đồng xét xử căn
cứ mức lương tối thiểu do nhà nước quy định hiện nay 2.340.000 đồng/ 1
tháng, tại phiên tòa chị Chu Thị H tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mức 1.200.000
đồng/1 tháng cho đến khi cháu Hứa Văn T đủ 18 tuổi, phương thức cấp dưỡng
theo tháng, thời điểm cấp dưỡng từ ngày xét xử thẩm (từ ngày 25/9/2024),
Hội đồng xét xử nhận thấy là phù hợp nên chấp nhận. Trường hợp người phải thi
hành án chậm thanh toán thì phải chịu lãi suất chậm trả theo quy định pháp luật.
7
Nếu sau này mức cấp dưỡng này không còn phù hợp thì các bên vẫn quyền
yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng theo quy định pháp luật.
[7] Đi với yêu cu v khon tin nh l 50 triệu đồng, Hội đng xét xử thấy
rng không có căn cứ bởi tin sính lmà gia đình anh Ha Văn E đưa cho gia đình ch
Chu Thị H đưc thực hin theo phong tc tp quán và sự tự nguyện ca hai bên. S
tiền này gia đình ch Hưng đã dùng đmua sm đđạc cho ch Chu Th H và anh
Hứa Văn E sử dng khi kết hôn. Do vy không chp nhận yêu cu này của anh Hứa
Văn E.
[8] Về tài sản chung, vay nchung: Không có nên Hi đng xét x không xem
xét gii quyết.
[9] Về án phí: Nguyên đơn, bị đơn thuộc Hộ nghèo và người dân tộc
thiểu số, trú điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, thuộc diện
được miễn án phí, đề nghị được miễn án phí nên được miễn án phí thẩm
án phí cấp dưỡng theo điểm đ, khoản 1, Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/
UBTVQH14 của Quốc hội. Trả lại 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí chị Chu
Thị H đã nộp theo Biên lai thu số 0003240 ngày 19/07/2024 tại Chi cục Thi
hành án dân sự huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn. Trả lại 1.250.000 đồng tiền tạm
ứng án phí anh Hứa Văn E đã nộp theo Biên lai thu số 0003251, ngày
26/8/2024tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Lạng Sơn.
[10] Về quyền kháng cáo: Các đương sự quyền kháng cáo bản án theo
quy định tại Điều 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 53; khoản 1 Điều 56; Điều 57; Điều 81, 82,
83, 84, 107, 110, 116 và Điều 117 Luật Hôn nhân gia đìnhm 2014;
Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 39; khoản 4
Điều 147; khoản 1, khoản 2 Điều 229; 271; 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Điều 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
Căn cứ điểm đ, khoản 1, Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Tờng vụ Quốc hội ka 14 quy định v mức thu,
miễn, giảm, thu nộp, quản lý và s dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chChu Thị H, xử cho
chị Chu Thị H được ly hôn anh Hứa Văn E.
2. Về con chung: Giao cho anh Hứa Văn E trực tiếp chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục con chung là Hứa Văn T, sinh ngày 11/10/2015 cho đến khi con
đủ 18 tuổi. Buộc chị Chu Thị H trách nhiệm phải cấp dưỡng nuôi con mức
1.200.000đ/01 tháng đến khi cháu Hứa Văn T đủ 18 tuổi, phương thức cấp
dưỡng tính theo tháng. Thời điểm cấp dưỡng từ ngày tuyên án thẩm (ngày
25/9/2024).
8
Người không trực tiếp nuôi con quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung
không ai được ngăn cản. Khi cần thiết hai bên đương sự quyền yêu cầu thay
đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
Kể từ khi Quyết định hiệu lực pháp luật, bên được yêu cầu đơn yêu
cầu thi hành án. Nếu n bị yêu cầu chậm trả thì hàng tháng còn phải trả i đối
với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại Điều 357
và khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
3. Không chấp nhận yêu cầu của anh Hứa Văn E về việc yêu cầu chị Chu
Thị H có nghĩa vụ thanh toán tiền sính lễ ngày cưới với số tiền 50.000.000 đồng.
4. Về án phí: Chị Chu Thị H và anh Ha Văn E không phải chu án phí, tr lại
300.000 đồng tiền tạm ứng án phí cho chị Chu Thị H theo biên lai thu tiền tạm
ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003240 ngày 19/07/2024 tại Chi cục thi hành án
dân sự huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn. Trả lại 1.250.000 đồng tiền tạm ứng án
phí anh Hứa Văn E đã nộp theo Biên lai thu số 0003251, ngày 26/8/2024 tại Chi
cục Thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Lạng Sơn.
5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn quyền kháng cáo bản án
trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 9
Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Lạng Sơn;
- VKSND huyện Văn Quan;
- Chi cục THADS huyện V;
- Các đương sự;
- UBND xã T, huyện V;
- UBND xã X, huyện C;
- Lưu hồ sơ + Tổ HCTP.
Tải về
Bản án số 18/2024/HNGĐ-ST Bản án số 18/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 18/2024/HNGĐ-ST Bản án số 18/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất