Bản án số 169/2025/DS-PT ngày 12/05/2025 của TAND tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, thanh toán phí tổn đăng ký mua tài sản bán đấu giá theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 169/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 169/2025/DS-PT ngày 12/05/2025 của TAND tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, thanh toán phí tổn đăng ký mua tài sản bán đấu giá theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, thanh toán phí tổn đăng ký mua tài sản bán đấu giá theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đồng Tháp
Số hiệu: 169/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 12/05/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Nguyễn Thanh S - Nguyễn Văn T
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH ĐỒNG THÁP Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 169/2025/DS-PT
Ngày: 08/4/2025
Về việc tranh chấp yêu cầu hủy
kết quả bán đấu giá tài sản
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
Thành phần Hội đồng xét xử phc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Hồng Nước
Các Thẩm phán: Ông Trần Văn Kiến
Ông Phạm Minh Tùng
Thư phiên tòa: Huỳnh Thị Ngọc Trang Thư Tòa án nhân dân
tỉnh Đồng Tháp.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp tham gia phiên tòa:
Ông Đỗ Trung Đến - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 25 tháng 02, ngày 17 tháng 3, ngày 01 tháng 4 ngày 8
tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp, tiến hành xét xử
phúc thẩm vụ án dân sự thụ số 421/2024/TLPT-DS ngày 16 tháng 10 năm
2024, về việc Tranh chấp yêu cầu hủy kết quả bán đấu giá tài sản”.
Do bản án dân sự thẩm số 73/2024/DS-ST ngày 27 tháng 6 năm 2024,
của Toà án nhân dân thành phố Cao Lãnh bị kháng cáo bị Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân thành phố Cao Lãnh kháng nghị;
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 612/2024/QĐXXPT-DS ngày 13
tháng 11 năm 2024 Quyết định hoãn phiên tòa số 641/2024/QĐPT-DS ngày
03/12/2024; Thông báo về thời gian mở lại phiên tòa số 39/TB-TA ngày
04/02/2025 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thanh S, Chấp hành viên, Chi cục Thi hành án
dân sự thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
Địa chỉ: Số B, N, phường D, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp.
Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1950;
Địa chỉ: Số C (số M), đường T, Tổ A, Khóm B, Phường F, thành phố C,
2
tỉnh Đồng Tháp.
Đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Nguyễn Thị Kim A, sinh năm
1995.
Địa chỉ: Số B, N, Tổ E, Khóm E, Phường A, thành phố C, tỉnh Đồng
Tháp.
- Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật Nguyễn
Văn T1, Đoàn Luật sư thành phố H Là Luật sư thuộc Chi nhánh Công ty L2 tại
TP .. Địa chỉ: Số B, N, Phường F, Quận C, TP ..
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ngân hàng TMCP S3 (S4).
Trụ sở chính: Số B, N, phường V, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện theo pháp luật: Nguyễn Đức Thạch D; Chức vụ: Tổng Giám
đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn H, Chức vụ: Phó
Giám đốc Chi nhánh Đ;
Địa chỉ chi nhánh: Số E, N, Phường B, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp.
Ông H ủy quyền lại cho ông Bùi Trung T2, sinh năm 1979; Chức vụ:
Trưởng Phòng kiểm soát rủi ro – Chi nhánh Đ.
2. Phòng C1 tỉnh Đồng Tháp.
Địa chỉ: Số A, H, Phường B, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp.
Đại diện theo pháp luật: ông Nguyễn Văn T3; Chức vụ: Trưởng phòng.
3. Ông Trần Trung D1, sinh năm 1955;
4. Bà Võ Thị Kim S1, sinh năm 1958;
5. Ông Trần Thanh L, sinh năm 1976;
6. Ông Trần Đình T4, sinh năm 1980;
7. Bà Trần Thị Trúc G, sinh năm 1982;
Địa chỉ: Số C, tổ A, Khóm B, Phường F, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp.
Người đại diện theo ủy quyền của chị G, anh T4: Ông Trần Xuân P,
sinh năm 1976; Địa chỉ: Số I P, phường A, thành phố C, Đồng Tháp.
8. Anh Trần Trần Huỳnh Thanh P1, sinh năm 2001;
Cùng địa chỉ: Số C, tổ A, Khóm B, Phường F, thành phố C, tỉnh Đồng
Tháp.
9. Công ty Đ1.
Địa chỉ: Số C, Quốc lộ C, phường M, TP ., Đồng Tháp.
Giám đốc: Ông Trần Công L1, sinh năm 1982;
3
Địa chỉ: 2, đường B, tổ A, khu phố H, phường L, thành phố T, thành phố
Hồ Chí Minh.
10. Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh.
Địa chỉ: Số B, N, phường D, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Văn D2; Chức vụ: Chi cục
trưởng.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Trọng T5 Chức vụ: Chi cục
phó. Giấy ủy quyền ngày 24/02/2025.
mặt tại phiên tòa: Ông Nguyễn Thanh S, chị Nguyễn Thị Kim A, Luật
sư Nguyễn Văn T1, ông Trần Thanh L, ông Trần Hà Xuân P, ông Nguyễn Trọng
T5. đơn xin xét xử vắng mặt: Ông Trần Trung D1, bà Thị Kim S1, anh
Trần Huỳnh Thanh P1, Phòng công chứng số A tỉnh Đồng Tháp. Vắng mặt:
Công ty Đ1, Ngân hàng TMCP S3.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa, ông
Nguyễn Thanh S, là Chấp hành viên Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cao
Lãnh trình bày:
Căn cứ Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự s
135/2010/QĐST-DS ngày 19/8/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh,
tỉnh Đồng Tháp thì: Thị Kim S1 ông Trần Trung D1 trách nhiệm
liên đới trả cho Ngân hàng TMCP P2 (nay Ngân hàng TMCP S3) số tiền
165.618.750 đồng và lãi chậm thi hành án.
Ngày 26/8/2010, Ngân hàng đơn yêu cầu thi hành án đối với ông D1,
S1. Chi cục T6 đã ban hành Quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu số
1401/QĐ-CCTHA ngày 30/8/2010 phân công chấp hành viên tổ chức thi
hành.
Quá trình tổ chức thi hành án, Chấp hành viên đã thực hiện các trình tự,
thủ tục theo quy định.
Qua xác minh cho thấy tài sản của ông D1, bà S1 gồm: Quyền sử dụng đất
thửa 281, tbản đồ số 2, diện tích 174,9m
2
đất (ODT) và căn nhà cấp 4 được
xây dựng trên đất và thửa số 1045, tờ bản đồ số 8, diện tích 1.739.9m
2
đất (Lúa)
cấp cho hộ ông Trần Trung D1.
Theo biên bản giải quyết thi hành án ngày 07/9/2010 đối với ông Trần
Trung D1 Thị Kim S1 thì bà S1 trình bày: Hiện nay gia đình gặp khó
khăn về kinh tế, sống chủ yếu bằng nghề làm thuê, chỉ chờ vào việc bán nhà
đất trả nợ, xin gia hạn 05 tháng kể từ ngày 07/9/2010 để tự kêu bán nhà.
4
Ngày 15/10/2010, Chấp hành viên Công văn số 528/CCTHA gởi anh
Trần Thanh L, anh Trần Đình T4 chị Trần Thị Trúc G thông báo về việc
biên tài sản thuộc sở hữu chung, thông báo trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày
thông báo hợp lệ nếu không khởi kiện ra tòa để chia tài sản chung thì sẽ tiến
hành kê biên, thông báo được niêm yết tại nhà ông Trần Trung D1 theo quy
định.
Ngày 08/11/2010, bà Thị Kim S1 đến Chi cục Thi hành án xin gia hạn
60 ngày để bán nhà đất trả nợ, nếu qua thời gian trên không thực hiện thì
đồng ý cho Chi cục Thi hành án kê biên, phát mãi tài sản bán theo quy định.
Do đương sự không tự nguyện thi hành án, Chấp hành viên đã ban hành
Quyết định kê biên tài sản số 60/QĐ-CCTHA ngày 18/7/2011 Thông báo
biên tài sản số 248/TB-CCTHA ngày 18/7/2011, khi tống đạt do chỉ ông D1
nhà đang bị bệnh tai biến không nhận được, nên Chấp hành viên niêm yết
Quyết định và thông báo kê biên tại nhà ông D1 vào ngày 20/7/2011.
Ngày 03/8/2011, Hội đồng cưỡng chế đã tiến hành cưỡng chế biên tài
sản của ông D1, S1 gồm: Quyền sử dụng đất thửa 281, tờ bản đồ số 2, diện
tích 174,9m
2
đất (ODT) và căn nhà cấp 4 được xây dựng trên đất cấp cho hộ ông
Trần Trung D1.
Theo chứng thư thẩm định giá ngày 27/10/2011 của Công ty cổ phần T7
thì tổng giá trị tài sản kê biên là 589.516.000 đồng (trong đó, quyền sử dụng đất
374.286.000 đồng, nhà 214.605.000 đồng cây trồng trên đất 625.000
đồng) đã tống đạt chứng thư thẩm định giá cho ông D1, bà S1 vào ngày
08/11/2011 (bà S1 ký nhận).
Ngày 18/11/2011, Chấp hành viên đã ký hợp đồng ủy quyền bán đấu giá
tài sản với Công ty TNHH Đ1 để bán đấu giá tài sản trên với giá khởi điểm
589.516.000 đồng.
Do không người đăng tham gia đấu giá, qua 08 lần giảm giá, giá trị
tài sản kê biên của ông D1, bà S1 còn lại là 281.963.000 đồng.
Ngày 11/3/2013, Công ty trách nhiệm hữu hạn Đ1 thông báo bán đấu giá
tài sản của ông D1, S1 với giá khởi điểm 281.963.000 đồng, 02 người
đăng ký tham gia đấu giá là ông Nguyễn Văn T và bà Trần Thị Kim C, cùng ngụ
tại phường F, thành phố C.
Ngày 22/4/2013, Công ty trách nhiệm hữu hạn Đ1, tổ chức bán đấu giá tài
sản của ông Trần Trung D1 và bà Võ Thị Kim S1.
5
Kết quả, ông Nguyễn Văn T đã trúng đấu giá với mức giá là: 290.963.000
đồng (Hai trăm chín mươi triệu, chín trăm sáu mươi ba nghìn). Theo hợp đồng
bán đấu giá tài sản số 15/2013/HDMBTSDG - DPAC ngày 22/4/2013 biên
bản bán đấu giá ngày 22/4/2013 của Công ty TNHH Đ1.
Ông Nguyễn Văn T đã nộp đủ tiền 290.963.000 đồng (Hai trăm chín mươi
triệu, chín trăm sáu mươi ba nghìn).
Tuy nhiên, quá trình tổ chức thi hành án bán đấu giá một số sai sót
nên cho đến nay chưa giao được tài sản trúng đấu gcho ông T. Các sai sót đó
là: Chấp hành viên thiếu sót khi chưa thực hiện việc thông báo cho người
được thi hành án yêu cầu Tòa án có thẩm quyền phân chia tài sản của người phải
thi hành án với các thành viên khác trong hộ gia đình ông D1, không tổ chức cho
các bên đương sự người quyền lợi nghĩa vụ liên quan thỏa thuận về giá
trước khi hợp đồng thẩm định giá. Chấp hành viên đã vi phạm Điều 74 của
Luật Thi hành án dân sự.
Các anh, chị: L, T4, G con ông D1, S1 khiếu nại Chi cục Thi hành án
thành ph C không cho họ quyền ưu tiên mua lại tài sản chung hộ gia đình.
Đồng thời, đã khởi kiện ra Tòa án tranh chấp phân chia tài sản chung. Kết quả:
Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh đã thụ lý giải quyết bằng việc dân sự, chia
cho mỗi người được 1/5 diện tích đất nêu trên (theo Quyết định số
01/2022/QĐST-VDS ngày 12/02/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Cao
Lãnh).
Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Lãnh Quyết định số 68/QĐ-
VKS ngày 30 tháng 05 năm 2022 kháng nghị Quyết định giao tài sản số 02/-
CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ngày 24/5/2022 của Chi cục Thi hành án
dân sự thành phố về việc giao tài sản cho người mua trúng đấu giá.
Có sai sót về ngày, tháng công chứng trong hợp đồng mua bán tài sản bán
đấu giá, cụ thể: Hợp đồng bán đấu giá tài sản số 15/2013/HĐMBTSDG - DPAC
ngày 22/4/2013 của Công ty TNHH Đ1, nhưng Phòng công chứng lại ghi chứng
nhận vào ngày 08/3/2013.
Nay nguyên đơn yêu cầu hủy kết quả bán đấu giá theo Biên bản bán đấu
giá tài sản, ngày 22/4/2013 đối với người mua trúng đấu giá ông Nguyễn Văn
T Hủy hợp đồng bán đấu giá tài sản số 15/2013/HĐMBTSDG - DPAC ngày
22/4/2013 giữa Công ty TNHH Đ1 với ông Nguyễn Văn T để trả lại tài sản cho
hộ ông Trần Trung D1 và bà Võ Thị Kim S1 (Tại phiên tòa sơ thẩm, ông S trình
bày do đơn khởi kiện ghi nhầm hợp đồng bán đấu giá tài sản số
15/2013/HĐMBTSDG - DPAC ngày 22/4/2013 được giữa Công ty TNHH
6
Đ1 với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh); Hủy hợp đồng bán đấu
giá tài sản khi công chứng, chứng nhận hợp đồng vào số công chứng sai sót
về thời gian.
Hậu quả pháp lý:
- Theo đơn khởi kiện trình bày: Chi cục Thi hành án dân sự thành phố sẽ
hoàn trả lại cho ông T tiền mua tài sản bán đấu giá đã nộp 290.963.000 đ (Hai
trăm chín mươi triệu, chín trăm sáu mươi ba nghìn).
Các nhân, tổ chức lỗi dẫn đến làm cho hợp đồng hiệu cùng
trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại cho ông T theo quy định, cụ thể: bồi
thường cho ông T tiền lãi suất theo quy định của Nhà nước từ khi ông T nộp tiền
mua trúng đấu giá cho đến nay.
- Tại phiên hòa giải tại phiên tòa sơ thẩm, ông S trình bày xin thay đổi
yêu cầu khởi kiện: Không yêu cầu nhân, tổ chức nào khác liên đới bồi
thường, nếu sau này có tranh chấp sẽ yêu cầu giải quyết thành vụ kiện khác. Đối
với phần bồi thường thiệt hại theo tiền lãi suất tính theo quy định của Nhà
nước 10%/năm. Ngoài ra, thống nhất ông T được quyền nhận tiền lãi suất phát
sinh từ số tiền đấu giá hiện nay Chi cục Thi hành án dân sự thành phCao Lãnh
đang gửi tại Ngân hàng.
- Bị đơn ông Nguyễn Văn T Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
bị đơn trình bày:
Về cách tham gia tố tụng: Ông T cho rằng Tòa án xác định tư cách
tham gia tố tụng của ông T “bị đơn" trong vụ án này là chưa đúng với Điều
68 Bộ luật tố tụng dân sự, bởi lẽ: Giữa Chi cục Thi hành án dân sự thành phố C
ông T không phát sinh giao dịch dân sự. Công ty TNHH Đ1 (Công ty Đ1)
đại diện theo ủy quyền cho Chi cục thi hành án Thành phố Cao Lãnh (Hợp đồng
ủy quyền bán đấu giá tài sản kết ngày 07/03/2011) đthực hiện việc bán đấu
giá tài sản kê biên của ông Trần Trung D1 và Thị Kim S1 để thi hành án.
Sau khi nhận ủy quyền của Chi cục THA TPCL, Công ty Đ1 đã thực hiện đầy
đủ các thủ tục theo quy định của pháp luật để bán đấu giá tài sản nêu trên. Kết
thúc phiên đấu giá thành đã lập biên bản về việc bán tài sản, thực hiện việc giao
kết hợp đồng mua bán tài sản đấu giá. Hợp đồng mua bán tài sản đấu giá số
15/2013/HĐMBTSDG-DPAC ngày 22/04/2013 giữa ông T công ty Đ1 được
thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục quy định, được Công chứng viên Phòng C2
tỉnh Đồng Tháp chứng nhận. Ông T đã nộp đủ tiền mua tài sản nêu trên.
7
Ông T người mua tài sản đấu giá theo đúng quy định pháp luật, sau khi
giao kết hợp đồng đã trả tiền thực hiện theo đúng thỏa thuận của hợp đồng,
nhưng đến nay vẫn chưa được Công ty Đ1 giao tài sản theo thỏa thuận. Kể từ
năm 2013 đến nay, ông T đã nhiều lần đơn yêu cầu được giao tài sản trúng
đấu giá. Tuy nhiên, do phát sinh khiếu kiện, khiếu nại của người phải thi hành
án, nên việc bàn giao tài sản trúng đấu giá cho ông T đến nay vẫn chưa thực hiện
được.
Hiện nay bản thân ông T và gia đình ông mới là người có quyền và lợi ích
hợp pháp bị xâm phạm chứ không phải Ông xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp
pháp của ông Nguyễn Thanh S Chấp hành viên Chi cục Thi hành án dân sự
TP. Cao Lãnh.
Về Yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thanh S Chấp hành viên, Chi
cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh yêu cầu hủy kết quả bán đấu giá tài
sản.
+ Căn cứ: Khoản 2 Điều 102 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi,
bổ sung năm 2014 hiệu lực ngày 01/7/2015) quy định: “Người mua được tài
sản bán đấu giá, Chấp hành viên quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết
tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, nếu có căn cứ chứng minh có vi phạm
trong quá trình bán đấu giá tài sản";
Tài liệu chứng cứ mà ông Nguyễn Thanh S giao nộp cho Tòa án kèm theo
đơn khởi kiện đủ các thủ tục về bán đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật,
phiên đấu giá công khai có sự tham gia giám sát trực tiếp của Chấp hành viên là
ông Nguyễn Thanh S, Công chứng viên Hùng A1. Quá trình bán đấu giá
không vi phạm, trong các tài liệu chứng cứ ông Nguyễn Thanh S cung cấp
cho Tòa án không có tài liệu nào chứng minh có vi phạm trong quá trình bán đấu
giá tài sản. căn cứ Điều 172 Luật thi hành án dân sự, Khoản 3 điều 56 Nghị
định 17 thì chỉ hủy kết quả bán đấu giá trong trường hợp có vi phạm không thực
hiện quy định về việc niêm yết, thông báo công khai việc bán đấu giá tài sản.
Đề nghị bồi thường trong trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn theo Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước tổn thất tinh
thần, tổn thất kinh tế….
Tuy nhiên, tại Đơn đnghị không hòa giải ngày 20/3/2024 tại phiên
tòa thẩm ông T trình bày xin rút lại yêu cầu bồi thường nếu trong trường hợp
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận, nhưng đề nghị Tòa án xác
định quyền khởi kiện của ông T trong vụ án khác, căn cứ để bồi thường cho ông
T theo Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước hay Bộ luật dân sự.
8
Ngoài ra căn cứ Điều 429 Bộ luật dân sự 2015, Điều 70, Điều 72, Điều
184, Điều 185, điểm e khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, đề nghị
Tòa án áp dụng thời hiệu khởi kiện và đình chỉ giải quyết vụ án, trả lại đơn khởi
kiện cho nguyên đơn.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Trung D1, Thị
Kim S1, anh Trần Thanh L, anh Trần Đình T4, chị Trần Thị Trúc G, anh Trần
Trần Huỳnh Thanh P1 trình bày: Thống nhất việc yêu cầu hủy kết quả bán đấu
giá tài sản của nguyên đơn. do: Chấp hành viên đã nhiều sai phạm trong
quá trình kê biên bán đấu giá tài sản.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ngân hàng S4 trình bày:
Ông D1, S1 đang nvay đã quá hạn tại S4 Chi nhánh Đ
theo Hợp đồng tín dụng số 0403/12/08NN/HĐTD ngày 25/12/2008. Ông D1,
S1 đã thế chấp tài sản theo Hợp đồng thế chấp số 0403/12/08NN/HĐTC ngày
25/12/2008. Ngân hàng yêu cầu xđúng quy định, khi xử tài sản thế chấp
thì ưu tiên trả nợ cho Ngân hàng.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Phòng C2 trình bày: Hợp đồng
mua bán tài sản bán đấu giá số 15/2013/HĐMBTSĐG-DPAC ngày 22/4/2013
của ng ty TNHH Đ1, Phòng C2 chứng nhận số 1907, quyển số 04 ngày
24/4/2013, không phải chứng nhận ngày 08/3/2013 (số, quyển số và ngày chứng
nhận được viết tay). Hợp đồng do Công ty Đ1 đánh máy (Hợp đồng ngày
22/4/2013 nhưng ng ty Đ1 đánh máy ngày 08/3/2013; Khi công chứng, Công
chứng viên ý không phát hiện đánh máy sai ngày ký hợp đồng). Việc đánh
máy sai ngày kết hợp đồng tại lời chứng không làm ảnh hưởng đến quyền,
nghĩa vụ các bên trong hợp đồng.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Chi cục Thi hành án dân sự
thành phố Cao Lãnh trình bày:
Đề nghị Tòa án xét xử theo quy định pháp luật (theo nội dung đơn khởi
kiện), Chi cục Thi hành án dân sự thành phố không có ý kiến.
Tại bản án dân sự thẩm số 73/2024/DS-ST ngày 27 tháng 6 năm 2024,
của Toà án nhân dân thành phố Cao Lãnh đã xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thanh S - Chấp
hành viên Chi cục Thi hành án dân sthành phố Cao Lãnh về việc yêu cầu hủy
kết quả bán đấu giá tài sản giữa Công ty TNHH Đ1 (nay Công ty Đ1) và ông
Nguyễn Văn T.
9
2. Giữ nguyên kết quả bán đấu giá tài sản giữa Công ty TNHH Đ1 (nay là
Công ty Đ1) ông Nguyễn Văn T theo biên bản bán đấu giá ngày 22/4/2013;
Hợp đồng bán đấu giá tài sản số 15/2013/HĐMBTSDG - DPAC ngày 22/4/2013
giữa Công ty TNHH Đ1 với ông Nguyễn Văn T.
Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh phải tiếp tục thực hiện
việc bàn giao tài sản đấu gcho ông Nguyễn Văn T theo đúng quy định của
pháp luật đấu giá tài sản, pháp luật thi hành án dân sự.
3. Xác định lỗi thuộc về Chi cục Thi hành án dân sthành phố Cao Lãnh
để làm căn cứ yêu cầu bồi thường theo Luật Trách nhiệm bồi thường Nhà nước.
4. Về án phí:
Ông Nguyễn Thanh S, Chấp hành viên, Chi cục Thi hành án dân sự thành
phố Cao Lãnh không phải nộp tiền án phí, được hoàn trả lại số tiền 300.000
đồng theo Biên lai số 0012034 ngày 13/3/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự
thành phố Cao Lãnh.
Ngoài ra bản án còn tuyên về quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 04/7/2024, ông Trần Trung D1, Võ Thị Kim S1, ông Trần Thanh L,
ông Trần Đình T4, Trần Thị Trúc G, Trần Trần Huỳnh Thanh P1 người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan kháng cáo yêu cầu sửa Bản án sơ thẩm theo hướng
chấp nhận việc hủy kết quả đấu giá tài sản giữa Công ty Đ1 với ông T.
Ngày 08/7/2024, Viện kiểm t nhân dân thành phố Cao Lãnh quyết
định kháng nghị số 03/QĐ-VKS-DS kháng nghị đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh
Đồng Tháp xét xử phúc thẩm vụ án theo hướng hủy Bản án thẩm. Tại phiên
tòa phúc thẩm đại diện Viện kiểm sát thay đổi kháng nghị số 03/QĐ-VKS-DS
ngày 08/7/2024 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Lãnh như
sau: Về tư cách tham gia tố tụng Công ty Đ1 bị đơn, ông T người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan. Về nội dung đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm
theo hướng hủy kết quả bán đấu giá của Công ty Đ1 với ông Nguyễn Văn T,
chấp nhận kháng cáo của hộ ông Trần Trung D1 gồm Thị Kim S1, Trần
Thanh L, Trần Đình T4, Trần Thị Trúc G, Trần Huỳnh Thanh P1.
- Ti phiên tòa phúc thm
Ông Trần Thanh L giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Ông Trần Hà Xuân P trình bày: Bản án dân sự sơ thẩm số 67/2019/DS-ST
ngày 27/9/2019 kết luận: ... Công ty Đ1 Hợp đồng mua n tài sản đấu giá
số 15/2013/HĐMBTSĐG-DPAC với ông Nguyễn Văn T nhưng không có ý kiến
10
của những chủ sở hữu chung vi phạm điều cấm của pháp luật do vậy hợp
đồng này bị vô hiệu...” Sau đó bản án bị cấp phúc thẩm hủy do qui phạm tố tụng
chứ không phải sai về mặt nội dung. Đúng ra tòa án cấp thẩm phải áp dụng
theo bản án này về mặt nội dung mới đúng.
Bản án dân sthẩm không xem xét bằng chứng do người liên quan
cung cấp chứng minh sai phạm của Công ty TNHH Đ1 là Công ty này bán tài
sản chung của hộ ông D1, không sự đồng ý của hộ ông D1 đã vi phạm Điều
456 Luật Dân sự 2005.
Mặt khác về phía Công ty TNHH Đ1 thì cũng không xuất trình được bằng
chứng đchứng minh rằng mình bán tài sản chung đã có sự đồng ý hông D1.
Đồng thời sau nhiêu lần giảm gphía hộ của ông D1 cũng không nhận được
quyết định giám giá. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi của hộ ông
D1.
Tòa thẩm lấy Thông báo số 15/TB-TCTHADS ngày 18/01/2016
Thông báo số 319/ TB-TCTHADS ngày 14/10/2016 của Tổng cục Thi hành án
dân sự xác định quá trình tổ chức đấu giá tài sản không sai phạm để làm căn cứ
kết luận xét xử vụ án không đúng. Tổng cục Thi hành án dân sự đâu
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn lại kết luận quá trình bán đấu giá đúng
hay sai. đó phải là của Sở pháp tỉnh Đồng Tháp mới đúng theo quy định
tại Nghị định 17/2010/NĐ-CP ngày 04/03/2010 về bán đấu giá tài sản.
Về Công chứng viên biết Công ty bán đấu giá đem ra bán tài sản chung
của hộ ông D1 vẫn công chứng Hợp đồng mua bán với ông T vi phạm
Điều 456 Luật dân sự năm 2005. Tình tiết này không được Tòa sơ thẩm xem xét
để giải quyết vụ án không khách quan không toàn diện. Bởi vi phạm của
Công chứng viên có yếu tố chủ quan, ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ tài sản.
Tòa thẩm xét xvượt quá thẩm quyền. Bởi trong vụ án này không
đương sự nào yêu cầu khởi kiện (yêu cầu phản tố và yêu cầu độc lập) buộc
Chi cục Thi hành án dân sự giao tài ản bán đấu giá cho ông T giao tài sản bán
đấu giá cho ông T (là bị đơn). Vậy mà Tòa sơ thẩm tuyên buộc Chi cục Thi hành
án dân sự phải giao tài sản bán đấu giá cho ông T.
Từ những căn cứ trên chị G, anh T4 yêu cầu Tòa phúc thẩm xét xử sửa
bản án thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và kháng cáo của
anh T4, chị G.
11
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của ông T trình bày: Tại phiên
tòa phúc thẩm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng xác định tài sản tranh
chấp trong vụ án này là QSDĐ và tài sản gắn liền với đất.
Thứ nhất, nguồn gốc QSDĐ do ông tổ tiên, cha mẹ của ông D1, bà
S1 để lại từ trước đến nay chứ không phải công sức đóng góp của thành viên
trong hộ, tại phần hỏi thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng xác định
việc thế chấp tài sản trên cho ngân hàng M để chữa bệnh cho ông D1. Việc
mang tài sản lớn đi thế chấp để vay tiền chữa bệnh tđương nhiên các thành
viên trong hộ gia đình phải biết nội dung này, hcũng không ý kiến
khi thế chấp. Trong quá trình giải quyết việc vay nợ, nhiều biên bản thỏa
thuận giữ hộ ông D1 S1 với ngân hàng, chấp nhận khoản trả nợ đó. Sau đó,
ông D1S1 không thực hiện thì chấp hành viên mới tiến hành kê biên bán đấu
giá tài sản.
Về yêu cầu kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Ông Trần Trung D1, Thị Kim S1, ông Trần Thanh L, ông Trần
Đình T4, bà Trần Thị Trúc G, anh Trần Trần Huỳnh Thanh P1 có đơn kháng cáo
toàn bộ Bản án thẩm số 73/2024/DS-ST, yêu cầu sửa Bản án thẩm theo
hướng chấp nhận việc hủy kết quả đấu giá tài sản giữa Công ty Đ1 với ông T.
Căn cứ: Điều 102 Luật Thi hành án dân snăm 2008 (sửa đổi, bsung
năm 2014) quy định Người mua được tài sản bán đấu giá, Chấp hành viên có
quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài
sản, nếu có căn cứ chứng minh có vi phạm trong quá trình bán đấu giá tài sản”.
(Người có quyn li nghĩa v liên quan trong v án này không có yêu cầu đc
lp mà ch có quyn li khi gii quyết v án nên căn c theo khoản 3 Điều 73
B lut t tng dân s thì có quyn, nghĩa v của nguyên đơn theo theo quy định
tại Điều 71, tuy nhiên trong v án này ngoài nguyên đơn là chp hành viên có
quyn khi kin yêu cu hủy kết quả bán đấu giá tài sn ra thì những người khác
không có quyn). Do đó người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong v án này
ông D1, S1, ông L, ông T4, G anh P1 không có quyền yêu cầu hủy kết
quả bán đấu giá tài sản giữa ông T và Công ty Đ1.
12
Mt khác, Tại phiên tòa ông S cũng đã nhiều lần khẳng định việc bán đấu
giá tài sản không có sai sót ông đã chấp nhận đối với quyết định của Bản án
thẩm. Ngoài ra, ngày 05/8/2024, Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cao
Lãnhđã Văn bản ý kiến số 335/VB-CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ về
việc, không thống nhất với Quyết định kháng nghị số 03/QĐ-VKS-DS ngày
08/7/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Lãnh.
Ti phiên tòa đại din chi cc thi hành án thành phố Cao Lãnh và chp
hành viên tha nhn trong quá trình bán đu giá tài sn không có tiêu cực không
có hành vi vi phm pháp luật. Căn cứ Điều 102 Luật Thi hành án dân sự 2008
(sửa đổi, bổ sung 2014), Điều 72 Luật đấu giá tài sản 2016, Điều 309 BLTTDS
2015 tài liệu chứng cứ trong hồ vụ án, tôi cho rằng ông D1, S1, ông L,
ông T4, G anh P1 kháng cáo yêu cầu tòa án Sửa Bản án thẩm theo
hướng chấp nhận việc Hủy kết quả bán đấu giá tài sản giữa Công ty Đ1 và ông
Tlà không có cơ sở để chấp nhận. Đề ngh Hội đồng xét xử xem xét.
V Quyết định kháng nghị phúc thẩm s03/QĐ-VKS-DS ngày 08/7/2024
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Lãnh đề nghị TAND
tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm vụ án theo hướng “Hủy Bản án sơ thẩm”. Tại
phiên tòa phúc thẩm tđại diện Viện kiểm sát bảo vệ kháng nghị thay đổi
nội dung kháng nghị theo hướng Sửa bản án sơ thẩm, đnghị hủy kết quả bán
đấu giá tài sản giữa Công ty Đ1 ông T”. Nhận thấy Quyết định kháng nghị
phúc thẩm số 03/QĐ-VKS-DS quan điểm đại diện Viện kiểm sát là không
hp pháp và không có căn cứ pháp lý. Thứ nhất, Viện kiểm sát ban hành kháng
ngh và đại diện Viện kiểm sát là chưa xem xét đánh giá các tài liu chng c có
trong h vụ án mt cách khách quan toàn din và đầy đủ. Ni dung kháng
ngh bác b toàn b các ý kiến ch đạo v nghip v ca các quan cấp trên
như: Đại diện Vụ 11 Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cục bổ trợ pháp, Vụ
pháp lut dân s - kinh tế Các đơn vị thuc tổng C3 như Vụ nghip V 1 V
nghip V 2, V nghip v 3, V nghip V gi quyết khiếu ni, t cáo th hin
ti “Thông báo số 15/TB-TCTHADS và Thông báo s 319/TB-TCTHADS”.
Kháng ngh của Viện kiểm sát chỉ xem xét bo v lợi cho ngưi có quyn li
13
nghĩa v liên quan là h gia đình nhà ông D1, bà S1 mà không h xem xét đến
quyn li ích hp pháp ca ông T là ngưi mua tài sn đấu giá hp pháp ngay
tình. Đề nghị HĐXX xem xét quyết định kháng nghị này.
Về tố tụng: Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 03/QĐ-VKS-DS cho
rằng, Công ty Đ1 người xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông S
Chấp hành viên Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh, thì Công ty Đ1
phải bị đơn trong vụ án nhận định này không căn cứ. Bỡi ti phiên tòa
chấp hành viên khẳng định công ty Đ1 không xâm phm quyn li ích ca ông.
Thc hiện đúng công vic theo ni dung y quyền bán đấu giá tài sản kết
ngày 13/02/2012. Công ty Đ1 là đại diện theo ủy quyền cho Chi cục Thi hành án
dân sự thành phố Cao Lãnh (Hợp đồng ủy quyền bán đấu giá tài sản ký kết ngày
13/02/2012) đthực hiện việc bán đấu giá tài sản biên của ông Trần Trung
D1 Võ Thị Kim S1 nhằm thi hành án. Sau khi nhận ủy quyền, Công ty Đ1
đã thực hiện đầy đủ các thủ tục bán đấu giá theo quy định và được Tổng cục Thi
hành án dân sự xác định quá trình tổ chức bán đấu giá tài sản không có sai phạm
tại Thông báo số 15/TB-TCTHADS ngày 18/01/2016, Thông báo 319/TB-
TCTHADS ngày 14/10/2016. Do đó, Công ty Đ1 đã nhân danh Chi cục Thi
hành án dân sự thành phố Cao Lãnh thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình
trong phạm vi được ủy quyền về việc tổ chức bán đấu giá tài sản không hề
xâm phạm đến bất cứ quyền lợi ích của ông S Chấp hành viên Chi cục Thi
hành án dân sự thành phố Cao Lãnh nên không thể xác định Công ty Đ1 cùng là
bị đơn trong vụ này.
Về nội dung kháng nghị: Ti phiên Tòa HĐXX cho tạm dng phiên tòa
theo Yêu cu ca ông S đ ông sơn cung cấp các quyết định gii quyết khiếu ni
theo Thông báo số 15/TB-TCTHADS Thông báo số 319/TB-TCTHADS xác
định quá trình bán đấu giá tài sản không sai phm Tuy nhiên, Ông S không
cung cấp được cho rằng Công ty Đ1 hiện không còn hoạt động nên không
cung cấp được.
Thứ hai, Khi nhận tài sản đưa ra bán đấu giá, Công ty Đ1 không tiến
hành kim tra thông tin, nguồn gốc, quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản cấp
14
cho hộ hay nhân do Chi cục T cung cấp chưa đúng theo khoản 3 Điều 26
Nghị định 17/2010…”. Theo đó, trường hợp trên thì không thuộc trường hợp hủy
kết quả bán đấu giá tài sản theo Điều 48 Nghị định 17/2010.
Thứ ba, “… Công ty Đ1 không thực hiện niêm yết thông báo về việc bán
đấu giá tài sản tại nơi tổ chức bán đấu giá, nơi BĐS UBND phường theo
quy định tại Điều 28 Nghị định 17/2010… Đối với lần hợp đồng cuối ngày
07/3/2013 Công ty Đ1 thực hiện thông báo công khai niêm yết nhưng
không th hiện cụ th nơi niêm yết UBND phường 6 hay niêm yết tại nơi
BĐS…” Ni dung này đã được VKSND tỉnh Đồng Tháp trả lời thỉnh thị kiểm
sát THADS thông qua Công văn số 273/VKS-P11 ngày 30/3/2016 như sau:“…
Qua nghiên cứu hồ sơ trong 07 lần giảm giá, thì bán đấu giá lần 08 niêm yết
thông báo bán đấu giá tài sản theo đúng quy định ông Nguyễn Văn T
người trúng đấu giá mua tài sản. Như vậy, đ đảm bảo quyền lợi của người mua
được tài sản bán đấu giá phải tổ chức giao tài sản cho ông T theo quy định tại
Điều 103 Luật THADS 2014…
Tại thời điểm ông T tham gia đấu giá trúng đấu giá tài sản, ông T
không thể biết được quá trình bán đấu giá tài sản được Chi cục T và Công ty Đ1
thực hiện như thế nào, ông T đã thực hiện đúng nghĩa vụ Hợp đồng bán đấu giá
tài sản và nộp đầy đủ tiền nên ông vẫn phải được bàn giao tài sản theo Điều 103
Luật THADS 2014.
Thứ , Đối với số tiền i phát sinh sau khi ông T đã nộp tiền khi trúng
đấu giá tài sản (290.963.000 đồng). Nguyên đơn thực hiện sai trình tự thủ tục
THA dẫn đến không giao tài sản cho ông T thì đó lợi tức t tiền ông T nộp,
không phải bồi thường thiệt hại…Nhận định trên không đầy đủ, trường
hợp, ông T không nhận được tài sản trúng đấu giá thì Chi cục Thi hành án dân
sự thành phố Cao Lãnhphải trả lại số tiền ông T đã nộp khi trúng đấu giá
tiền lãi tính theo lãi suất 10%/năm từ khi nộp cho đến nay. Ngoài ra, Chi cục Thi
hành án dân sự phải bồi thường thiệt hại cho ông T theo Luật trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước do quá trình tchức thi hành án của ông S - Chấp hành
viên sai sót như bồi thường tổn thất vtinh thần trong suốt thời gian chờ bàn
15
giao tài sản, bồi thường thất thoát kinh tế do không thể sử dụng, quản tài sản
trúng đấu giá, bồi thường chi phí đi lại, phát sinh khác trong quá trình yêu cầu
bàn giao tài sản trúng đấu giá, tham gia tranh chấp tại tòa án các quan nhà
nước khác… Về vấn đề này, phải giành cho ông T quyền khởi kiện đối với Chi
cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh trong một vụ án khác để yêu cầu
bồi thường cho ông T theo quy định pháp luật.
Từ những phân tích trên, đề nghị HĐXX: Không chp nhn kháng cáo
của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và kháng ngh của Viện kiểm sát.
Gi nguyên bn án sơ thẩm.
- Đại din Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp phát biểu ý kiến:
V vic tuân theo pháp lut t tng
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán:
Từ khi thụ lý giải quyết vụ việc đến khi nghị án, Thẩm phán đã tuân thủ
đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về việc tuân theo pháp luật ttụng của Hội đồng t xử phúc thẩm, Thư
ký phiên tòa:
Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng, đầy đủ các quy định
Bộ luật Tố tụng dân sự về trình tự xét xử phúc thẩm.
Về việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng:
Người tham gia tố tụng đã thực hiện quyền nghĩa vụ đúng theo quy
định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
V vic gii quyết v án
Xét kháng cáo của ông Trần Trung D1, Thị Kim S1, Trần Thanh L,
anh Trần Đình T4, chị Trần Thị Trúc G anh Trần Trần Huỳnh Thanh P1 v
việc yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa Bản án sơ thẩm theo hướng: Hủy kết quả
bán đấu giá tài sản giữa Công ty Đ1 và ông Nguyễn Văn T và Quyết định kháng
nghị phúc thẩm số 03/QĐ-VKS-DS ngày 08/7/2024 của Viện trưởng - Viện
KSND thành phố C yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa Bản án thẩm số
73/2024/DS-ST ngày 27/6/2024 của TAND thành phố Cao Lãnh v việc đ ngh
Tòa án cp phúc thm sa Bn án thẩm ca thành ph Cao lãnh theo hướng:
16
Thay đổi tư cách tham gia t tng và Hủy kết quả bán đấu giá tài sản giữa Công
ty Đ1 và ông Nguyễn Văn T. Nhận thấy;
Về thủ tc tố tụng:
Tòa án sơ thẩm xác định Công ty Đ1 tham gia t tng với tư cách là người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và ông Nguyễn Văn T là b đơn trong vụ án là
chưa phù hợp. Bởi lẽ, nguyên đơn ông Nguyễn Thanh S Chấp hành viên Chi
cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh khởi kiện yêu cầu: Hủy kết quả bán
đấu giá tài sản, ngày 22/4/2013; Hủy hợp đồng mua bán tài sản đấu giá số
15/2013/HĐMBTSDG - DPAC ngày 22/4/2013 giữa Công ty TNHH Đ1 (nay
Công ty Đ1) với ông Nguyễn Văn T ngày 08/4/2013. Như vậy, đối tượng khi
kiện đã ảnh hưởng trc tiếp đến vic làm ca Công ty Đ1, còn ông Nguyễn Văn
T ch là ngưi b ảnh hưởng t vic yêu cu khi kin ca chp hành viên. Do
đó, xác định Công ty Đ1 b đơn, còn ông tn là ngưi có quyn li, nghĩa v liên
quan trong v án là phù hợp theo quy định tại Điều 68 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Về nội dung giải quyết:
Bản án sơ thẩm căn cứ điểm c khoản 1 Điều 48 Nghị định 17/2010/NĐ-
CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản quy định về huỷ kết
quả bán đấu giá tài sản:
1. Kết quả bán đấu giá tài sản bị huỷ trong các trường hợp sau đây:
c) Kết quả bán đấu giá tài sản bị huỷ theo quyết định của người thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử vi phạm
hành chính và theo quy định tại khoản 3 Điều 56 Nghị định này"
Tại khoản 3 Điều 56 Nghị định 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của
Chính phủ quy định:
3. Bổ sung biện pháp khắc phục hậu quả “hủy kết quả bán đấu giá tài
sản” đối với các hành vi vi phạm hành chính “không thực hiện quy định về việc
niêm yết, thông báo công khai việc bán đấu giá tài sản” quy định tại đim a
khoản 1 Điều 29 Nghị định số 60/2009/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực tư pháp"
Tại Điều 4 Nghị định 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ quy
định: "Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người mua được tài sản bán đấu giá”.
1. Quyền, lợi ích hợp pháp của người mua được tài sản bán đấu giá được
pháp luật bảo vệ. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong phạm vi nhiệm vụ,
17
quyền hạn của mình trách nhiệm bảo đảm việc thực hiện quyền, lợi ích hợp
pháp của người mua được tài sản bán đấu giá.
2. Trong trường hợp người thứ ba tranh chấp về quyền sở hữu, quyền
sử dụng tài sản đã bán đấu giá thì việc xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng
tài sản đó được thực hiện theo quy định của pháp luật dân sự.
3. Trong trường hợp quyết định của quan nhà nước thẩm quyền
về việc sửa đổi một phần hoặc huỷ bỏ toàn bộ các quyết định liên quan đến tài
sản bán đấu giá do vi phạm pháp luật trước khi tài sản được đưa ra bán đấu
giá nhưng trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản đó bảo đảm tuân theo đầy đủ quy
định của pháp luật thì tài sản đó vẫn thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng của
người mua được tài sản bán đấu giá.
Tổ chức, nhân lỗi gây ra thiệt hại phải bồi thường theo quy định
của pháp luật"
Căn cứ Thông báo số 15/TB-TCTHADS ngày 18/01/2016, Thông báo
319/TB-TCTHADS ngày 14/10/2016 của Tổng cục Thi hành án dân sự xác định
quá trình tổ chức bán đấu giá tài sản không có sai phạm.
Tòa án thẩm căn cứ vào các quy định nêu trên để bảo vệ quyền lợi của
người mua trúng đấu gtài sản người thứ 3 ngay tình theo quy định tại Điều
258 Bộ luật Dân sự năm 2005, Điều 4 Nghị định Nghị định 17/2010/NĐ-CP
ngày 04/3/2010 của Chính phủ, cần tiếp tục giao tài sản trúng đấu giá cho người
mua trúng đấu gông T, nên yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn yêu cầu hủy
kết quả bán đấu giá tài sản không có cơ sở để chấp nhận. Nhận định này ca cp
sơ thẩm là chưa phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Bởi lẽ:
- Căn cứ các tài liệu chứng cứ do nguyên đơn ông S cung cấp “Hồ
bán đấu giá tài sản của hộ ông Trần Trung D1”. Theo hồ bán đấu giá tài sản
của hộ ông Trần Trung D1 thể hiện: Về trình t thủ tục bán đáu giá tài sản
không đúng theo quy định tại Nghị định 17/2010/NĐ-CP ngày 03/4/2010 của
Chính phủ quy định về bán đấu giá tài sản (Nghị định 17). Cụ thể: Khi nhận i
sản đưa ra bán đấu giá, Công ty TNHH Đ1 không tiến hành kiểm tra thông tin
về nguồn gốc, quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản cấp cho hộ hay nhân do
Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh cung cấp là chưa đúng theo quy
định tại khoản 3 Điều 26 Nghị định 17 nên tiến hành bán đấu giá tài sản trên,
trong khi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ; Đưa tài sản hộ ra n
18
đấu giá khi chưa sự đồng ý của các chủ sở hữu chung theo Điều 456 Bộ luật
Dân sự năm 2005 là trái quy định.
Ti khoản 3 Điều 26 quy định:
3. Tổ chức n đấu giá tài sản có trách nhiệm kim tra tính chính xác
của c thông tin về nguồn gốc tài sản, quyền sở hữu, quyền sử dụng của tài
sản do người có tài sản bán đấu giá cung cấp.
- Thể hiện việc tổ chức bán đấu giá tài sản thì thủ tục niêm yết, thông báo
công khai bán đấu giá thủ tục bắt buộc phải thực hiện trước khi khi mở cuộc
bán đấu giá. Tuy nhiên, sau khi hợp đồng bán đấu giá lần đầu tiên vào ngày
08/11/2011, lần thứ hai ngày 13/02/2012 các phụ lục của hợp đồng (ký phụ
lục 05 lần) với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh, Công ty TNHH
Đ1 không thực hiện niêm yết thông báo về việc báo đấu giá tài sản tại nơi tổ
chức bán đấu giá, nơi bất động sản Ủy ban nhân dân phường theo quy
định tại Điều 28 Nghị định 17 chỉ tiến hành thông báo công khai trên báo
Đ2. Đối với lần hợp đồng cuối ngày 07/3/2013 Công ty TNHH Đ1 thực hiện
thông báo công khai và có niêm yết nhưng không thể hiện cụ thể nơi niêm yết là
Ủy ban nhân dân Phường F hay niêm yết tại nơi bất động sản, tại biên bản
niêm yết xác nhận của chính quyền địa phương. Tại nơi bán đấu giá tài sản
không có tài liệu thể hiện có niêm yết.
Tại Điều 28 Nghị định 17 quy định:
Niêm yết, thông báo công khai việc bán đấu giá tài sản: Đối với bất động
sản, tổ chức bán đấu giá tài sản phải niêm yết việc bán đấu giá tài sản tại nơi
bán đấu giá, nơi bất động sản bán đấu giá Ủy ban nhân dân xã, phường,
thị trấn nơi có bất động sản bán đấu giá chậm nhất là ba mươi ngày trước ngày
mở cuộc bán đấu giá, tr trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Do Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh thực hiện sai trình tự
thủ tục thi hành án dẫn đến không giao tài sản cho ông T nên s tin lãi phát
sinh t khi ông T đã nộp khi trúng đấu giá tài sản là 290.963.000đ ông T đưc
nhn là phù hp.
Mc dù, Bn án thẩm có vi phm v th tc t tụng nhưng xét thy vi
phm này không ảnh hưởng đến ni dung v án và có th kht phục được ti giai
đon phúc thm nên không cn thiết phi hy Bn án thẩm mà ch cn sa
Bn án sơ thẩm theo hướng:
19
- Thay đổi địa v t tng và Hy kết quả bán đấu giá tài sản giữa ng ty
TNHH Đ1 vi ông Nguyễn Văn T ngày 22/4/2013;
- Hủy hợp đồng bán đấu giá tài sản số ngày 22/4/2013 giữa Công ty Đ1
với ông Nguyễn Văn T là đảm bo gii quyết v án.
T ni dung, phân tích nêu trên, nhn thy. Kháng cáo ca ông Trần
Trung D1, Thị Kim S1, Trần Thanh L, anh Trần Đình T4, chị Trần Thị Trúc
G, anh Trần Trần Huỳnh Thanh P1 và Quyết định Kháng ngh phúc thẩm số
03/QĐ-VKS-DS ngày 08/7/2024 của Viện trưởng - Viện KSND thành phố C là
có căn cứ.
Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật TTDS đề ngh Hội đồng xét x:
- Chấp nhận kháng cáo của ông Trần Trung D1, Thị Kim S1, Trần
Thanh L, anh Trần Đình T4, chị Trần Thị Trúc G, anh Trần Trần Huỳnh Thanh
P1;
- Chp nhn Quyết định Kháng ngh phúc thẩm số 03/QĐ-VKS-DS ngày
08/7/2024 của Viện trưởng Viện KSND thành phố C.
Sa Bn án dân s sơ thẩm số 73/2024/DS-ST ngày 27/6/2024 của TAND
thành phố Cao Lãnh theo hướng:
- Xác đnh Công ty Đ1 b đơn; xác định ông Nguyễn Văn T là ngưi có
quyn li, nghĩa v liên quan;
- Hủy hợp đồng bán đấu giá tài sản số ngày 22/4/2013 giữa Công ty Đ1
với ông Nguyễn Văn T.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án được xem
xét tại phiên toà, trình bày của Luật phát biu ca kim sát viên tại phiên
toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng:
Ông Trần Trung D1, bà Thị Kim S1, Trần Thanh L, Trần Đình T4,
Trần Thị Trúc G, Trần Huỳnh Thanh P1 là người quyền lợi, nghĩa vụ liên
kháng cáo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Lãnh kháng nghị
trong hạn luật định. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm thụ xét xử theo trình t
phúc thẩm là đúng với Điều 273, 280, 293 Bộ luật tố dân sự năm 2015.
[2]. Ông Trần Trung D1, Thị Kim S1, Trần Thanh L, Trần Đình
20
T4, Trần Thị Trúc G, Trần Huỳnh Thanh P1 kháng cáo yêu cầu:
Sửa Bản án thẩm theo hướng chấp nhận việc hủy kết quả đấu giá tài
sản giữa Công ty Đ1 với ông Nguyễn Văn T.
Hội đồng xét xử xét thấy: Ông Nguyễn Thanh S Chấp hành viên, Chi
cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh thừa nhận, Chấp hành viên đã vi
phạm Điều 74 Luật Thi hành án dân sự khi chưa thực hiện việc thông báo cho
người được thi hành án yêu cầu Tòa án thẩm quyền phân chia tài sản của
người phải thi hành án với các thành viên khác trong hộ gia đình ông D1, S1;
Không thông báo cho các chủ sở hữu chung về quyền ưu tiên mua tài sản;
Không tổ chức cho các đương sự người quyền lợi nghĩa vụ liên quan thỏa
thuận về giá trước khi hợp đồng thẩm định giá nên yêu cầu hủy kết quá bán
đấu giá tài sản. Do đó xác định lỗi của Chấp hành viên nên dẫn đến việc
không giao tài sản trúng đấu gcho ông Nguyễn Văn T t2013 cho đến nay
chưa giải pháp giải quyết dứt điểm vụ việc. Đồng thời Hợp đồng bán đấu giá
tài sản số 15/2013/HĐMBTSDG - DPAC ngày 22/4/2013 của Công ty TNHH
Đ1, nhưng Phòng công chứng lại ghi chứng nhận vào ngày 08/3/2013 sai
sót vthời gian. Về trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản không đúng theo quy
định tại Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 03/4/2010 của Chính phủ quy định
về bán đấu giá tài sản (Nghị định 17). Cụ thể:
- Khi nhận tài sản đưa ra bán đấu giá, Công ty TNHH Đ1 không tiến hành
kiểm tra thông tin về nguồn gốc, quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản cấp cho
hộ hay nhân do Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh cung cấp
chưa đúng theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP
ngày 03/4/2010 của Chính phủ, trong khi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cấp cho hộ; Đưa tài sản hộ ra bán đấu gkhi chưa sự đồng ý của các chủ sở
hữu chung theo Điều 456 Bộ luật dân sự năm 2005 trái quy định của pháp
luật.
- Tại Điều 28 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 03/4/2010 của Chính
phủ quy định: “Niêm yết, thông báo công khai việc bán đấu giá tài sản: Đối với
bất động sản, tổ chức bán đấu giá tài sản phải niêm yết việc n đấu giá tài sản
tại nơi bán đấu giá, nơi bất động sản bán đấu giá Ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn nơi bất động sản bán đấu giá chậm nhất ba mươi ngày
trước ngày mở cuộc bán đấu giá, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
21
Theo hồ thể hiện sau khi hợp đồng bán đấu giá lần đầu tiên vào
ngày 08/11/2011, lần thứ hai ngày 13/02/2012 các phlục của hợp đồng (ký
phụ lục 05 lần) với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh, Công ty
TNHH Đ1 không thực hiện niêm yết thông báo về việc báo đấu giá tài sản tại
nơi tổ chức bán đấu giá, nơi bất động sản Ủy ban nhân dân phường theo
quy định tại Điều 28 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 03/4/2010 của Chính
phủ, Công ty TNHH B tiến hành thông báo công khai trên báo Đ2 không đầy
đủ, không đúng quy định của pháp luật.
Đối với lần hợp đồng cuối cùng ngày 07/3/2013 Công ty TNHH Đ1
thực hiện thông o công khai niêm yết nhưng không thể hiện cụ thể i
niêm yết là Ủy ban nhân dân Phường F hay niêm yết tại nơi bất động sản, tại
biên bản niêm yết có xác nhận của chính quyền địa phương. Tại nơi bán đấu giá
tài sản không có tài liệu thể hiện có niêm yết.
- Tại điểm c khoản 1 Điều 48 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày
03/4/2010 của Chính phủ quy định:
“1. Kết quả bán đấu giá tài sản bị huỷ trong các trường hợp sau đây:
c) Kết quả bán đấu giá tài sản bị hutheo quyết định của người thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm
hành chính và theo quy định tại khoản 3 Điều 56 Nghị định này
Tại khoản 3 Điều 56 Nghị định 17 quy định:
“……..
3. Bổ sung biện pháp khắc phục hậu quả “hủy kết quả bán đấu giá tài sản”
đối với các hành vi vi phạm hành chính “không thực hiện quy định về việc niêm
yết, thông báo công khai việc bán đâu giá tài sản” quy định tại điểm a khoản 1
Điều 29 Nghị định số 60/2009/NĐ-CP ngày 23/7/2009 của Chính phủ về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp”.
Do đó, ông S khởi kiện yêu cầu hủy kết quả bán đấu giá theo Biên bản
bán đấu giá tài sản, ngày 22/4/2013 đối với người mua trúng đấu giá ông
Nguyễn Văn T Hủy hợp đồng bán đấu giá tài sản s 15/2013/HĐMBTSDG -
DPAC ngày 22/4/2013 giữa Công ty TNHH Đ1 với ông Nguyễn Văn T
căn cứ. Do chấp nhận yêu cầu của ông S nên chấp nhận yêu cầu kháng o của
22
ông Trần Trung D1, Thị Kim S1, ông Trần Thanh L, ông Trần Đình T4,
Trần Thị Trúc G, Trần Trần Huỳnh Thanh P1 như nhận định nêu trên.
Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm ông Nguyễn Văn S2 ông Nguyễn
Trọng T5 là người đại diện theo ủy quyền của Chi cục Thi hành án dân sự thành
phố Cao Lãnh, trường hợp Hội đồng xét xhủy Biên bản bán đấu giá tài sản,
ngày 22/4/2013 đối với người mua trúng đấu giá là ông Nguyễn Văn T Hủy
hợp đồng bán đấu giá tài sản số 15/2013/HĐMBTSDG - DPAC ngày 22/4/2013
giữa Công ty TNHH Đ1 với ông Nguyễn Văn T thì Chi cục Thi hành án dân sự
thành phố Cao Lãnh tnguyện đồng ý trả lại cho ông Nguyễn Văn T số tiền
290.963.000 đồng tiền lãi theo quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử
ghi nhận sự tự nguyện này.
Vậy tiền lãi được tính như sau: Thời gian tính lãi bắt đầu từ ngày ông T
nộp tiền đến ngày 08/4/2025 là ngày xét xử phúc thẩm.
- Biên bản bán đấu giá tài sản, ngày 22/4/2013 ông T nộp số tiền
28.000.000 đồng đến ngày 08/4/2025 là 4.306 ngày.
28.000.000đ x 0,83% x 4.306 ngày/30 = 33.357.200 đồng;
- Phiếu thu ngày 23/4/2013 ông T nộp số tiền 28.000.000 đồng đến ngày
08/4/2025 là 4.305 ngày.
28.000.000đ x 0,83% x 4.305 ngày/30 = 33.349.400 đồng;
- Phiếu thu ngày 23/4/2013 ông T nộp số tiền 154.000.000 đồng đến ngày
08/4/2025 là 4.305 ngày.
154.000.000đ x 0,83% x 4.305 ngày/30 = 183.421.700 đồng;
- Phiếu thu ngày 24/4/2013 ông T nộp số tiền 30.000.000 đồng đến ngày
08/4/2025 là 4.304 ngày.
30.000.000đ x 0,83% x 4.304 ngày/30 = 35.723.200 đồng;
- Phiếu thu ngày 25/4/2013 ông T nộp số tiền 50.963.000 đồng đến ngày
08/4/2025 là 4.303 ngày.
50.963.000đ x 0,83% x 4.303 ngày/30 = 60.671.200 đồng;
Tổng cộng Vốn, lãi: 637.485.700 đồng (290.963.000đ + 346.522.700đ).
[3]. Xét Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 03/QĐ-VKS-DS ngày
08/7/2024 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Lãnh v
23
cách tham gia tố tụng Công ty Đ1 là bị đơn, ông T người quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan. Hội đồng xét xử xét thấy theo quy định tại khoản 3 Điều 68 của Bộ
luật tố tụng dân sự thì bị đơn là người bị nguyên đơn khởi kiện cho rằng
quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị xâm phạm nên Tòa án cấp sơ thẩm
xác định ông Nguyễn Văn T bđơn, ng ty Đ1 người quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan trong vụ án đúng pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử không thay
đổi về cách đương sự trong vụ án nên Hội đồng xét xử không chấp nhận
kháng nghị phần này. Xét về nội dung đại diện Viện kiểm sát đề nghị sửa bản án
dân sự thẩm theo hướng hủy kết quả bán đấu giá theo Biên bản bán đấu giá
tài sản, ngày 22/4/2013 đối với người mua trúng đấu giá ông Nguyễn Văn T
Hủy hợp đồng bán đấu giá tài sản số 15/2013/HĐMBTSDG - DPAC ngày
22/4/2013 giữa Công ty TNHH Đ1 với ông Nguyễn Văn T. Như nhận định tại
mục [2] của bản án xét thấy kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
thành phố Cao Lãnh căn cứ, phù hợp pháp luật nên chấp nhận kháng nghị
phần này.
[4]. Xét lời trình bày của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông
T là có căn cứ một phần nên chấp nhận một phần như đã nhận định nêu trên.
[5]. Do chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Trần Trung D1, Thị
Kim S1, ông Trần Thanh L, ông Trần Đình T4, Trần Thị Trúc G, Trần Huỳnh
Thanh P1 chấp nhận một phần kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân thành phố Cao Lãnh nên sửa bản án số 73/2024/DS-ST ngày 27 tháng
6 năm 2024, của Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
[6]. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp là có
căn cứ một phần nên chấp nhận một phần như đã nhận định nêu trên.
[7]. Do sửa án án dân sthẩm nên tính lại án pdân sự thẩm theo
quy định pháp luật.
[8]. V án phí dân s phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo của ông Trần
Trung D1, Võ Thị Kim S1, ông Trần Thanh L, ông Trần Đình T4, Trần Thị Trúc
G, Trần Huỳnh Thanh P1 chấp nhận một phần kháng nghị của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Lãnh nên ông D1, bà S1, ông L, ông T4,
bà G và anh P1 không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
[9]. Các phn khác của bản án dân s sơ thẩm s 73/2024/DS-ST ngày 27
tháng 6 năm 2024, của Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp
24
không có kháng cáo, kháng ngh có hiu lc pháp lut k t ngày hết thi hn
kháng cáo, kháng ngh.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308, khoản 2 Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 ca Ủy Ban T8 quy định về án
phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 03/QĐ-
VKS-DS ngày 08/7/2024 ca Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố
Cao Lãnh.
2. Chấp nhn yêu cu kháng cáo ca ông Trần Trung D1, Thị Kim S1,
ông Trần Thanh L, ông Trần Đình T4, Trần Thị Trúc G, Trần Huỳnh Thanh P1.
3. Sửa bản án dân s thẩm s 73/2024/DS-ST ngày 27 tháng 6 năm
2024, của Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
3.1. Hủy kết quả n đấu giá theo Biên bản bán đấu giá tài sản, ngày
22/4/2013 đối với người mua trúng đấu giá ông Nguyễn Văn T Hủy hợp
đồng bán đấu giá tài sản số 15/2013/HĐMBTSDG - DPAC ngày 22/4/2013 giữa
Công ty TNHH Đ1 với ông Nguyễn Văn T.
Ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Thanh S và ông Nguyễn Trọng
T5 người đại diện theo ủy quyền của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố
Cao Lãnh liên đới trả cho ông Nguyễn Văn T số tiền gốc 290.963.000 đồng
lãi 346.522.700 đồng. Tổng cộng vốn lãi 637.485.700 đồng (Sáu trăm ba
mươi bãy triệu, bốn trăm tám mươi lăm ngàn, bãy trăm đồng chẳn).
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho
đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án
còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất
quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
3.2. Án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Nguyễn Thanh S, Chấp hành viên Chi cục Thi hành án dân sự thành
phố Cao Lãnh không phải nộp tiền án phí, được hoàn trả lại stiền 300.000
25
đồng theo Biên lai số 0012034 ngày 13/3/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự
thành phố Cao Lãnh.
4. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Trần Trung D1, Thị Kim S1, ông
Trần Thanh L, ông Trần Đình T4, Trần Thị Trúc G, Trần Trần Huỳnh Thanh P1
không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả cho ông Trần Trung D1,
Thị Kim S1, ông Trần Thanh L, ông Trần Đình T4, Trần Thị Trúc G, Trần Trần
Huỳnh Thanh P1 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm
ứng án phí số 0009973 ngày 04/7/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành
phố Cao Lãnh.
5. Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại
Điều 2 Luật Thi hành án dân sự sa đổi, b sung năm 2014 tngười được thi
hành án, người phải thi hành án quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu
thi nh án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định
tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật Thi hành án dân ssa đổi, b sung năm
2014; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự sửa đổi b sung năm 2014.
6. Các phn khác ca bn án dân s thẩm s 73/2024/DS-ST ngày 27
tháng 6 năm 2024, của Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp
không có kháng cáo, kháng ngh có hiu lc pháp lut k t ngày hết thi hn
kháng cáo, kháng ngh.
7. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Phòng KT-TT và THA;
- VKSND Tỉnh;
- TAND TP Cao Lãnh;
- Chi Cục THADS TP Cao Lãnh;
- Đương sự;
- Lưu: VT, HSVA, TDS (Trang).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đã ký tên đóng dấu
Lê Hng Nưc
26
Tải về
Bản án số 169/2025/DS-PT Bản án số 169/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 169/2025/DS-PT Bản án số 169/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất