Bản án số 164/2023/HS-PT ngày 25-09-2023 của TAND tỉnh Hà Tĩnh về tội tổ chức đánh bạc (hình thức ghi số lô, số đề)
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
164_2023_HS-PT_HA_TINH.pdf
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
164_2023_HS-PT_HA_TINH.doc
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 164/2023/HS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 164/2023/HS-PT ngày 25-09-2023 của TAND tỉnh Hà Tĩnh về tội tổ chức đánh bạc (hình thức ghi số lô, số đề) |
---|---|
Tội danh: | 322.Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Hà Tĩnh |
Số hiệu: | 164/2023/HS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 25/09/2023 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Hồ Thị Xuân H, Lê Thị N phạm tội Tổ chức đánh bạc |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH --------------- Bản án số: 164/2023/HS-PT Ngày: 25 - 9 - 2023 |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc --------------------- |
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH
BẢN ÁN 164/2023/HS-PT NGÀY 25/09/2023 VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC
Ngày 25 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 134/2023/TLPT-HS, ngày 08 tháng 9 năm 2023 đối với các bị cáo Hồ Thị Xuân H, Lê Thị N do có kháng cáo của các bị cáo Hồ Thị Xuân H, Lê Thị N đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 45/2023/HS-ST ngày 31/7/2023 của Tòa án nhân dân huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
- Các bị cáo có kháng cáo:
1. Hồ Thị Xuân H; giới tính: Nữ; tên gọi khác: Không; sinh ngày 10/5/1982 tại xã Đỉnh Bàn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh; nơi đăng ký HKTT: Tổ dân phố 6, phường H, thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: Lớp 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Hồ Đức T (đã chết) và bà Lê Thị M; có chồng Lại Phú H và 02 con; tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt khẩn cấp, tạm giữ từ ngày 03/01/2023, đến ngày 12/01/2023 được áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện đang trú tại phường H, thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh. (Có mặt)
2. Lê Thị N; giới tính: Nữ; tên gọi khác: Không; sinh ngày 22/3/1990 tại thị trấn Thạch Hà, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố X, thị trấn Thạch Hà, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: Lớp 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Lê Văn C (thương binh hạng 4/4 - đã chết) và bà Nguyễn Thị T, có chồng Nguyễn Đăng A và 02 con; tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 16/12/2019 bị Công an huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi Đánh bạc, cùng ngày đã nộp đủ tiền phạt.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/01/2023, đến ngày 12/01/2023 được áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện đang trú tại tổ dân phố 4, thị trấn Thạch Hà, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. (Có mặt) Ngoài ra, trong vụ án còn có 01 bị cáo không có kháng cáo, không bị kháng nghị không liên quan đến kháng cáo của các bị cáo Hồ Thị Xuân H, Lê Thị N nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Từ khoảng đầu tháng 01 năm 2023, lợi dụng kết quả Xổ số kiến thiết miền Bắc (XSKTMB) mở thưởng từ 18 giờ 15 phút đến 18 giờ 30 phút hàng ngày, Hồ Thị Xuân H nhận Lê Thị N làm cấp dưới (gọi là thư ký đề) để tổ chức đánh bạc bằng hình thức ghi số lô, số đề trái pháp luật. H và N thỏa thuận đối với tiền đề, xiên, H trả hoa hồng cho N theo tỷ lệ 27.000 đồng/100.000 đồng tiền thu được (27%); còn đối với tiền lô thì H quy định giá 1 điểm lô = 21.900 đồng, thắng ăn 80.000 đồng để N tự trích lại tiền chênh lệch (nếu bán với giá cao hơn, cùng tỉ lệ thắng) hoặc quy đổi điểm rồi giữ lại tiền chênh lệch (nếu bán với tỉ lệ thắng thấp hơn) để làm tiền hoa hồng.
Lê Thị N nhận Lê Thị N và 01 người phụ nữ tên H ở thị trấn Thạch Hà làm thư ký đề và nhận ghi số lô, số đề cho các con bạc khác. N thỏa thuận với các thư ký đề của mình chia hoa hồng theo theo tỷ lệ 700 đồng/1 điểm lô (1 điểm lô = 20.000 đồng), 25.000 đồng/100.000 đồng tiền đề, xiên, ba càng (25%).
Trong ngày 03/01/2023, các đối tượng đã thực hiện hành vi Tổ chức đánh bạc và Đánh bạc như sau:
- Hành vi của Lê Thị N:
Lê Thị N nhận ghi trực tiếp cho các con bạc vãng lai (không rõ thông tin lai lịch) với số tiền là 4.284.000đ ( trong đó 86 điểm lô tương đương 1.720.000 đồng và 2.564.000 đồng tiền đề, xiên, ba càng). Bị cáo sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J6, màu đen có số imei 358.465.091.603.236, bên trong gắn thẻ sim số thuê bao 0942.974.886, đăng nhập vào tài khoản Zalo mang tên “Lê Thị N”, để chuyển toàn bộ các số lô, số đề cho Lê Thị N thông qua tài khoản Zalo mang tên “A k” của N.
Căn cứ kết quả XSKTMB mở thưởng ngày 03/01/2023, bảng của Lê Thị N trúng 26 điểm lô = 1.820.000 đồng. Tổng số tiền Đánh bạc của Lê Thị N là 6.104.000 đồng (4.284.000 đồng + 1.820.000 đồng). Lê Thị N và Lê Thị N chưa thanh toán cho nhau.
Theo thỏa thuận, Lê Thị N được N trả tiền hoa hồng là 701.200 đồng (trong đó 641.000 đồng tiền đề và 60.200 đồng tiền lô). Tuy nhiên, do bị phát hiện nên số tiền này N chưa được nhận.
- Hành vi của Lê Thị N và Hồ Thị Xuân H:
Lê Thị N sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11, màu tím, số imei 353.972.109.586.092, bên trong gắn thẻ sim số thuê bao 0395.xxxxxx, đăng nhập vào tài khoản Zalo mang tên “Aaa” để nhận bảng lô đề từ Lê Thị N, người phụ nữ tên H và các con bạc vãng lai khác, cụ thể:
+ Nhận từ thư ký Lê Thị N 86 điểm lô tương ứng số tiền 1.720.000 đồng và 2.564.000 đồng tiền đề, xiên, ba càng. Tổng số tiền N chuyển là 4.284.000 đồng. Căn cứ kết quả XSKTMB mở thưởng ngày 03/01/2023, bảng của N thắng 26 điểm lô = 1.820.000 đồng. Như vậy, tổng tiền đánh và tiền thắng là: 6.104.000 đồng. Tiền hoa hồng N phải trả cho N là 701.200 đồng. Giữa N và N chưa thanh toán tiền đánh, tiền thắng cũng như tiền hoa hồng cho nhau.
+ Nhận từ thư ký là một người phụ nữ tên H (không xác định được lai lịch cụ thể) sử dụng tài khoản zalo “Nail Xinh” chuyển đánh 770 điểm lô = 15.400.000 đồng và 800.000 đồng tiền đề. Tổng số tiền Hoài chuyển là 16.200.000 đồng. Căn cứ kết quả XSKTMB mở thưởng ngày 03/01/2023, bảng của Hoài thắng 30 điểm lô x 70.000 đồng/1 điểm = 2.100.000 đồng. Tổng tiền đánh và tiền thắng là: 18.300.000 đồng. Theo thỏa thuận, số tiền hoa hồng N phải trả cho Hoài là 539.000 đồng tiền lô và 200.000 đồng tiền đề, tổng bằng 739.000 đồng. Tuy nhiên, do bị phát hiện giữa N và Hoài chưa thanh toán tiền đánh, tiền thắng cũng như tiền hoa hồng cho nhau.
+ Nhận bán cho 01 người phụ nữ tên Thủy, quê ở tỉnh Lạng Sơn (không rõ lai lịch cụ thể) sử dụng tài khoản Zalo mang tên “Covid” nhắn tin đánh 1.610 điểm lô và 900.000 đồng tiền đề (trong đó có 02 số lô 79 (1.000 điểm), 87 (500 điểm) có tỷ lệ mỗi điểm 23.000 đồng thắng ăn 80.000 đồng. Còn với 110 điểm các số lô khác thì vẫn giữ nguyên tỷ lệ 1 điểm lô 20.000 đồng thắng ăn 70.000 đồng. Tổng tiền đánh bảng của Thủy là 37.600.000 đồng (trong đó 36.700.000 đồng tiền lô và 900.000 đồng tiền đề). Căn cứ kết quả XSKTMB mở thưởng ngày 03/01/2023, Thủy thắng 100 điểm lô (trong số điểm lô đánh với tỷ lệ 20.000 đồng ăn 70.000 đồng) tương ứng số tiền 7.000.000 đồng. Tổng tiền đánh và tiền thắng là: 44.600.000 đồng. Giữa Thủy và N chưa thanh toán cho nhau.
+ Nhận ghi lô đề từ các con bạc vãng lai (không rõ lai lịch cụ thể) với tổng 250 điểm lô x 20.000 đồng/1 điểm = 5.000.000 đồng. Căn cứ kết quả XSKTMB mở thưởng ngày 03/01/2023, các con bạc vãng lai thắng 150 điểm lô x 70.000 đồng/1 điểm = 10.500.000 đồng. Tổng tiền đánh và tiền thắng là: 15.500.000 đồng.
Tổng số tiền nhận đánh là 63.084.000 đồng (trong đó 1.216 điểm với giá 20.000 đồng và 1.500 điểm với giá 23.000 đồng và 4.264.000 đồng tiền đề).
Sau khi nhận các số lô, số đề nói trên, Lê Thị N dùng tài khoản Viber mang tên “aaaa”, được đăng ký bằng số điện thoại 0395.xxxxxx để chuyển toàn bộ số lô, đề nhận được cho Hồ Thị Xuân H thông qua tài khoản Viber của H mang tên “Thích Đô La” được đăng nhập trong chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s Plus màu vàng trắng, có số imei: 358.611.075.073.546, bên trong gắn thẻ sim số thuê bao 0343.xxxxxx, cụ thể như sau:
- Đối với 1.500 điểm lô N bán với giá 23.000 đồng, thắng ăn 80.000 đồng, N chuyển nguyên số điểm này cho Hồ Thị Xuân H (tương ứng số tiền 32.850.000 đồng). Số hoa hồng N được hưởng của 1.500 điểm lô này là: 1.650.000 đồng.
- Đối với 1.216 điểm lô N bán với giá 20.000 đồng, thắng ăn 70.000 đồng, quy đổi sang số điểm tương ứng của giá 21.900 đồng, thắng ăn 80.000 đồng để tính ra số điểm N cần phải chuyển cho Hồ Thị Xuân H là 1.064 điểm (bằng cách lấy số điểm bán được x 70.000 đồng/80.000 đồng). Số tiền hoa hồng N sẽ được hưởng của 1.216 điểm này là: (1.216 điểm x 20.000 đồng) – (1.064 điểm x 21.900 đồng) = 1.018.400 đồng.
Tuy nhiên, N chỉ chuyển cho H 980 điểm = 21.462.000 đồng, đồng thời N thêm 02 điểm lô để tự đánh bạc với H. Vì vậy, số tiền lô N chuyển cho H là 21.505.800 đồng.
Tổng số điểm lô Lê Thị N giữ lại mà không chuyển cho Hồ Thị Xuân H là 84,5 điểm, trong đó:
- Số điểm N ôm lại để tổ chức đánh bạc với cấp dưới (thư ký) là: 69 điểm x 21.900 đồng = 1.511.100 đồng. Sau khi có kết quả XSKTMB, những điểm lô này thắng 15 điểm x 80.000 đồng = 1.200.000 đồng. Số tiền N tự tổ chức đánh bạc với cấp dưới là: 2.711.100 đồng.
- Số điểm Lê Thị N ôm lại để đánh bạc với con bạc là: 15,5 điểm x 21.900 đồng = 339.000 đồng. Sau khi có kết quả XSKTMB, những điểm lô này thắng 6,25 điểm x 80.000 đồng = 500.000 đồng. Số tiền N đánh bạc với con bạc là: 839.000 đồng.
Như vậy, Lê Thị N đã chuyển cho Hồ Thị Xuân H tổng số tiền là 58.619.800 đồng (trong đó số đề, xiên: 4.264.000 đồng; lô: 54.355.800 đồng.) Căn cứ kết quả XSKTMB mở thưởng ngày 03/01/2023, bảng Lê Thị N chuyển lên cho Hồ Thị Xuân H thắng 247 điểm lô x 80.000 đồng = 19.760.000 đồng; còn Lê Thị N tự đánh với Hồ Thị Xuân H thắng 02 điểm x 80.000 đồng = 160.000 đồng.
Xác định tổng số tiền mỗi bị cáo Tổ chức đánh bạc và Đánh bạc; số tiền các bị cáo hưởng lợi bất chính từ việc tổ chức đánh bạc như sau:
- Hồ Thị Xuân H tổ chức đánh bạc với số tiền là: 58.619.800 đồng tiền đánh + 19.920.000 đồng tiền thắng + 2.668.400 đồng N trích ra từ tiền số lô đánh bạc với H để làm hoa hồng = 81.208.200 đồng. Thu lợi bất chính số tiền 58.619.800 đồng – 19.920.000 đồng – 1.151.280 đồng tiền hoa hồng số đề H phải trả cho Lê Thị N = 37.548.520 đồng.
- Tang số tổ chức đánh bạc của Lê Thị N là 83.715.500 đồng. (trong đó 81.004.400 đồng (trừ 2 điểm N tự đánh với H) với vai trò giúp sức cho Hồ Thị Xuân H và 2.711.100 đồng với vai trò là tổ chức); tang số thực hiện hành vi đánh bạc với số tiền là 1.042.800 đồng. Thu lợi bất chính số tiền 2.690.580 đồng.
- Lê Thị N đánh bạc với số tiền 6.104.000 đồng. Thu lợi bất chính số tiền 701.200 đồng.
* Cách thức đánh bạc bằng hình thức mua, bán số lô, số đề trái pháp luật và cách tính thắng - thua như sau:
Người mua chọn một con số bất kỳ trong dãy số từ 00 đến 99 để đặt cược với một số tiền nhất định (đối với số đề, xiên), dãy số có ba chữ số (đối với số ba càng) hoặc một số điểm tùy thích (đối với số lô). Số đề là 02 số cuối của giải đặc biệt; số ba càng là 03 số cuối của giải đặc biệt; số lô là 02 số cuối của tất cả các giải (27 giải); xiên 2 là bộ 2 số lô, xiên 3 là bộ 3 số lô; đầu là số đầu trong số đề; đuôi là số cuối trong số đề; Nếu trúng tỷ lệ thắng như sau: Đề 1.000 đồng nếu thắng được 70.000 đồng (tỷ lệ 1 ăn 70); Xiên 2 đánh 1.000 đồng nếu thắng được 10.000 đồng (tỷ lệ 1 ăn 10); Xiên 3 đánh 1.000 đồng nếu thắng được 40.000 đồng (tỷ lệ 1 ăn 40); Ba càng đánh 1.000 đồng nếu thắng được 300.000 đồng (tỷ lệ 1 ăn 300); Đầu, đuôi đánh 1.000 đồng nếu thắng được 7.000 đồng (tỷ lệ 1 ăn 7). Riêng tỷ lệ thắng của số lô các đối tượng có quy ước khác nhau, cụ thể: Hồ Thị Xuân H và Lê Thị N quy ước: Lô 1 điểm (1 điểm = 21.900 đồng) nếu thắng được 80.000 đồng (tỷ lệ 21,9 ăn 80); Lê Thị N, thư ký và các con bạc quy ước với nhau: Lô 1 điểm (1 điểm = 20.000 đồng) nếu thắng được 70.000 đồng (tỷ lệ 20 ăn 70); số lô xuất hiện trong giải bao nhiêu lần được nhân bấy nhiêu lần tiền thưởng. Nếu trong số các giải thưởng không có giải nào có 2 số cuối cùng trùng với 02 số cuối của giải đặc biệt (đối với số đề); hoặc trùng 3 số cuối cùng của giải đặc biệt (đối với đề ba càng); hoặc trùng với con số người mua chọn (đối với số lô, xiên), thì người mua bị trượt và mất tiền đặt cược.
* Cách thức thanh toán số tiền đánh bạc giữa Hồ Thị Xuân H với Lê Thị N và giữa Lê Thị N với các thư ký đề và người mua số lô, số đề như sau:
- Đối với Hồ Thị Xuân H và Lê Thị N, sau khi có kết quả XSKTMB, H và N sẽ gặp nhau để thanh toán tiền trực tiếp tiền đánh, tiền thắng của các con bạc và tiền hoa hồng bằng tiền mặt. N nhận tiền thắng bạc của con bạc từ H để đưa lại cho các con bạc thông qua thư ký.
- Đối với Lê Thị N và Lê Thị N và người phụ nữ tên H làm thư ký cho N, sau khi có kết quả XSKTMB thì sẽ gặp nhau để thanh toán tiền trực tiếp tiền đánh, tiền thắng của các con bạc và tiền hoa hồng bằng tiền mặt. N, Hoài nhận tiền thắng bạc của con bạc từ N để đưa lại cho các con bạc.
- Đối với những người trực tiếp đến mua số lô, số đề của Lê Thị N và các thư ký đề, những người này thanh toán tiền trực tiếp cho N hoặc các thư ký đề, nếu đánh trúng thì ngày hôm sau sẽ đến lấy thưởng trực tiếp từ N hoặc các thư ký đề. Riêng người tên Thủy ở tỉnh Lạng Sơn mua số lô, số đề của N và hẹn ngày hôm sau sẽ cho 01 người khác đến gặp trực tiếp N để thanh toán.
- Đối với những điểm lô Lê Thị N ôm lại đánh bạc với khách thì N tự trả tiền thắng cho khách bằng tiền đánh bạc ôm lại, nếu thiếu thì N tự bỏ tiền cá nhân vào để thanh toán.
Vật chứng của vụ án: Quá trình điều tra, CQCSĐT Công an huyện Thạch Hà đã tạm giữ các đồ vật của các đối tượng theo 03 khoản như sau:
+ 01 điện thoại di dộng nhãn hiệu Iphone 6S plus màu vàng trắng, có số imei: 358.611.075.073.546, bên trong gắn thẻ sim có số thuê bao 0343.xxxxxx, đã qua sử dụng (tạm giữ của Hồ Thị Xuân H);
+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11, màu tím, số imei 353.972.109.586.092, bên trong gắn thẻ sim có số thuê bao số 0395.xxxxxx, đã qua sử dụng (Lê Thị N tự nguyện giao nộp);
+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J6, màu đen, số imei: 358.465.091.603.236, bên trong gắn thẻ sim có số thuê bao 0942.974.886, đã qua sử dụng (Lê Thị N tự nguyện giao nộp).
Các vật chứng nói trên hiện đang được Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạch Hà quản lý theo quy định.
Với hành vi phạm tội nêu trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 45/2023/HS- ST ngày 31/7/2023 của Tòa án nhân dân huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh đã xét xử:
1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Hồ Thị Xuân H, Lê Thị N phạm tội “ Tổ chức đánh bạc”, bị cáo Lê Thị N phạm tội “Đánh bạc”.
2. Về hình phạt:
2.1. Hình phạt chính:
- Áp dụng điểm c khoản 1, Điều 322, điểm s khoản 1,2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, điều 38 BLHS xử phạt bị cáo Hồ Thị Xuân H 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ (từ ngày 03/01/2023 đến ngày 12/01/2023).
- Áp dụng điểm c khoản 1, Điều 322, điểm s khoản 1,2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, điều 38 BLHS xử phạt bị cáo Lê Thị N 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ (từ ngày 03/01/2023 đến ngày 12/01/2023).
- Áp dụng khoản 1, Điều 321, điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51, điều 35 BLHS xử phạt bị cáo Lê Thị N số tiền 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng) 2.2. Hình phạt bổ sung:
Áp dụng khoản 3 Điều 322, Điều 35 BLHS phạt bổ sung hình phạt tiền đối với các bị cáo: Hồ Thị Xuân H, Lê Thị N mỗi bị cáo: 25.000.000đ (hai mươi lăm triệu đồng).
Bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 10/8/2023, các bị cáo Hồ Thị Xuân H và Lê Thị N kháng cáo xin được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo khai và thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo đúng như nội dung của bản án sơ thẩm.
Bị cáo Hồ Thị Xuân H, Lê Thị N giữ nguyên nội dung kháng cáo xin được hưởng án treo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh giữ quyền công tố tại phiên tòa, sau khi phân tích nhân thân, hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã đề nghị Hội đồng xét xử:
Căn cứ điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự: Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Hồ Thị Xuân H, Lê Thị N. Sửa Bản án sơ thẩm số 45/2023/HS-ST ngày 31/7/2023 của Tòa án nhân dân huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Tuyên bố các bị cáo Hồ Thị Xuân H, Lê Thị N phạm tội “ Tổ chức đánh bạc”. Xử phạt bị cáo Hồ Thị Xuân H 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng; xử phạt bị cáo Lê Thị N 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tố tụng: Kháng cáo của các bị cáo trong hạn luật định nên hợp lệ được chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[2]. Về nội dung:
[2.1]. Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm. Do đó đủ cơ sở kết luận: Trong ngày 03/01/2023, tại phường Nguyễn Du, thành phố Hà Tĩnh, xã Thạch Khê và thị trấn Thạch Hà, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, bị cáo Hồ Thị Xuân H đã thỏa thuận chia hoa hồng để thông qua thư ký đề là Lê Thị N, còn Lê Thị N thỏa thuận chia hoa hồng để thông qua thư ký đề là Lê Thị N và người phụ nữ tên H (không xác định được danh tính) để tổ chức bán số lô, số đề trái pháp luật cho người khác. Bị cáo Lê Thị N ngoài việc giúp sức cho Hồ Thị Xuân H tổ chức đánh bạc còn ôm lại điểm lô để đánh bạc với cấp dưới, với các con bạc vãng lai và thêm điểm lô để đánh bạc với Hồ Thị Xuân H, cụ thể: Bị cáo Hồ Thị Xuân H tổ chức đánh bạc với số tiền 81.208.200 đồng, thu lợi bất chính 37.548.520 đồng. Bị cáo Lê Thị N tổ chức đánh bạc với số tiền là 83.715.500 đồng (trong đó 81.004.400 đồng với vai trò giúp sức cho Hồ Thị Xuân H và 2.711.100 đồng với vai trò là tổ chức); ngoài ra Lê Thị N còn thực hiện hành vi đánh bạc với số tiền là 1.042.800 đồng, thu lợi bất chính 2.690.580 đồng. Bị cáoLê Thị N đánh bạc với số tiền 6.104.000 đồng, thu lợi bất chính 701.200 đồng. Do đó, bản án hình sự sơ thẩm số 45/2023/HS-ST ngày 31/7/2023 của Tòa án nhân dân huyện Thạch Hà xét xử các bị cáo Hồ Thị Xuân H và Lê Thị N về tội “Tổ chức đánh bạc” là đúng người, đúng tội, có căn cứ, đúng pháp luật.
[2.2] Xét nội dung kháng cáo của các bị cáo Hội đồng xét xử nhận thấy:
- Đối với bị cáo Hồ Thị Xuân H: Bị cáo làm chủ đề để hưởng lợi bất chính số tiền đánh bạc trái phép, bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại quá trình điều tra, phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm bị cáo đã thành khẩn khai báo, gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn có xác nhận của chính quyền địa phương nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tại quá trình xét xử phúc thẩm, bị cáo có cung cấp biên lai tự nguyện nộp phạt bổ sung và án phí sơ thẩm; huân cH chiến sĩ giải phóng hạng ba, huân cH chiến sỹ vẻ vang hạng ba của bố đẻ bị cáo ông Hồ Đức T. Đây là các tình tiết mới cần xem xét cho bị cáo hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo có đơn trình bày hoàn cảnh gia đình, bị cáo đang ly thân một mình nuôi 2 con nhỏ và chăm sóc mẹ đẻ và anh trai ruột bị bệnh, tình tiết này Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ. Xét về điều kiện, hoàn cảnh hiện nay nếu xử phạt tù giam đối với bị cáo Hồ Xuân H thì các con bị cáo sẽ không có người chăm sóc, nuôi dưỡng, ảnh hưởng đến tương lai của các cháu, bị cáo còn chăm sóc mẹ già và anh trai ruột bị bệnh. Mặt khác, bị cáo có nơi cư trú ổn định, được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, nên không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cải biện pháp chấp hành án cho bị cáo được hưởng án treo, tạo điều kiện để bị cáo được cải tạo, giáo dục tại địa phương nơi bị cáo cư trú, có điều kiện để nuôi dưỡng, giáo dục các con của bị cáo trưởng thành, chăm sóc người thân thể hiện sự khoan hồng và tính nhân đạo của pháp luật.
- Đối với bị cáo Lê Thị N: Bị cáo tham gia với vai trò là người giúp sức cho vị cáo Hồ Thị Xuân H tổ chức đánh bạc để hưởng lợi tiền hoa hồng từ việc đánh bạc trái phép. Bị cáo có nhân thân xấu, từng bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc. Tuy nhiên, quá trình điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm bị cáo thành khẩn khai báo, đầu thú về hành vi phạm tội của mình; bị cáo có bố đẻ Lê Văn C là thương binh hạng 4/4, từng tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước, được Nhà nước tặng huy cH kháng chiến hạng Nhì; nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tại quá trình xét xử phúc thẩm, bị cáo có cung cấp biên lai tự nguyện nộp phạt bổ sung. Đây là các tình tiết mới cần xem xét cho bị cáo hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xét trong vụ án này bị bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, nên không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cải biện pháp chấp hành án cho bị cáo được hưởng án treo, tạo điều kiện để bị cáo được cải tạo, giáo dục tại địa phương nơi bị cáo cư trú thể hiện sự khoan hồng và tính nhân đạo của pháp luật.
[3]. Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án kháng cáo của các bị cáo được chấp nhận nên các bị cáo không phải chịu án phí Hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự: Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Hồ Thị Xuân H, Lê Thị N. Sửa Bản án sơ thẩm số 45/2023/HS-ST ngày 31/7/2023 của Tòa án nhân dân huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
Tuyên bố các bị cáo Hồ Thị Xuân H, Lê Thị N phạm tội “ Tổ chức đánh bạc”.
- Áp dụng điểm c khoản 1, Điều 322, điểm s khoản 1,2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38, Điều 65 BLHS. Xử phạt bị cáo Hồ Thị Xuân H 12 (mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo Hồ Thị Xuân H cho Uỷ ban nhân dân phường H, thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh quản lý, giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
- Áp dụng điểm c khoản 1, Điều 322, điểm s khoản 1,2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38, Điều 65 BLHS. Xử phạt bị cáo Lê Thị N 12 (mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo Lê Thị N cho Uỷ ban nhân dân thị trấn Thạch Hà, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh quản lý, giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Nếu người được hưởng án treo thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 Bộ luật hình sự. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.
2. Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án kháng cáo của các bị cáo Hồ Thị Xuân H, Lê Thị N được chấp nhận nên các bị cáo không phải chịu án phí Hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: - VKSND tỉnh Hà Tĩnh; - TA, VKS, Công an, THA sơ thẩm; - Sở tư pháp Hà Tĩnh; - Phòng PV 06 CA tỉnh Hà Tĩnh; - Các bị cáo; - Lưu HSVA. |
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Thương Huyền |
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!