Bản án số 130/2023/HS-ST ngày 26/09/2023 của TAND huyện Thạch Thất, TP. Hà Nội về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 130/2023/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 130/2023/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 130/2023/HS-ST ngày 26/09/2023 của TAND huyện Thạch Thất, TP. Hà Nội về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy |
---|---|
Tội danh: | 197.Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (Bộ luật hình sự năm 1999) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Thạch Thất (TAND TP. Hà Nội) |
Số hiệu: | 130/2023/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 26/09/2023 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 255; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 54 Bộ luật hình sự |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠCH THẤT, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 130/2023/HS-ST NGÀY 26/09/2023 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 26-9-2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 125/2023/TLST-HS ngày 11-9- 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 121/2023/QĐXXST-HS ngày 14-9- 2023 đối với bị cáo:
PHAN VĂN C, sinh năm 1989 tại xã Hữu B, huyện T, thành phố Hà Nội; Nơi cư trú: Thôn M, xã Hữu B, huyện T, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phan Văn H (đã chết) và con bà La Thị H; vợ: Đỗ Thị Tú A; con: có 02 con, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2015; Danh chỉ bản số 368 lập ngày 27-5-2023 tại Công an huyện T; tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 26-5-2023, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 01 – Công an thành phố Hà Nội; có mặt tại phiên tòa.
- Người làm chứng:
1. Anh Nguyễn Khắc D, sinh năm 1989; Nơi cư trú: Thôn Ngọc Tr, thị trấn Quốc O, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội (vắng mặt);
2. Anh Phan Văn T, sinh năm 1987; Nơi cư trú: Thôn Miễu, xã Hữu B, huyện T, thành phố Hà Nội (vắng mặt);
3. Anh Trần Quang Th, sinh năm 1991; Nơi cư trú: Thôn Vĩnh Lộc 2, xã Phùng X, huyện T, thành phố Hà Nội (vắng mặt).
4. Chị Bùi Thị H, sinh năm 2000; Nơi cư trú: Xóm C, xã Vũ B, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Ngày 19-5-2020, Phan Văn C đi đến chân cầu vượt Phú Cát thuộc thôn 1, xã Thạch Hòa, huyện T, thành phố Hà Nội mua 4 viên ma túy MDMA (gọi là Kẹo) và 2 gói ma túy Ketamine với số tiền 4.000.000 đồng rồi mang về cất giấu tại nhà.
Ngày 21-5-2020, C mang theo số ma túy trên và cùng Phan Văn Tú, Nguyễn Khắc D đi uống bia tại một quán bia ở xã Hữu Bằng, huyện T. Trong lúc uống bia Tú rủ D và C đi hát tại quán Karaoke “S” tại thôn 2, xã Thạch Hòa, huyện T. Chủ quán hát là anh Nguyễn Văn Luyến bố trí C, Tú, D vào phòng hát VIP 1 và gọi thêm Bùi Thị H là nhân viên của quán vào phục vụ. Sau khi vào phòng hát, C lấy 04 viên ma túy MDMA để trên bàn, C sử dụng 01 viên, đưa cho H và D mỗi người sử dụng 01 viên, Tú tự lấy một viên ma túy bẻ làm đôi rồi sử dụng một nửa, nửa còn lại D để trên mặt bàn. Một lúc sau C đi ra bên ngoài phòng hát lấy 1 đĩa sứ màu trắng rồi sử dụng tờ tiền 20.000 đồng cuộn thành ống hút mang vào trong phòng hát và đổ ma túy Ketamine ra đĩa, sử dụng thẻ nhựa của C mang theo “xào” ma túy rồi C, Tú, D, H lần lượt sử dụng ma túy bằng cách dùng ống hút cuộn bằng tờ tiền hít ma túy Ketamine vào mũi. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, C gọi cho Trần Quang T rủ đến quán hát, T đến phòng hát thấy có sẵn nửa viên ma túy MDMA và ma túy Ketamine nên cũng sử dụng. Khoảng 17 giờ 40 phút cùng ngày, trong lúc C, Tú, T, D và H đang hát karaoke và sử dụng ma túy thì bị lực lượng Công an xã Thạch Hòa đến kiểm tra, phát hiện, bắt giữ quả tang. Vật chứng thu giữ gồm: 01 túi nilong bên trong chứa chất bột màu trắng, 01 đĩa sứ màu trắng hình tròn, 01 thẻ sim điện thoại và 01 tờ tiền 20.000 đồng có bám dính chất tinh thể màu trắng.
Tại bản kết luận giám định số 4049/KLGĐ-PC09 ngày 28-5-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an TP. Hà Nội kết luận: Chất bột màu trắng bên trong túi ni lông là ma tuý loại Ketamine, khối lượng 0,472 gam; đĩa sứ hình tròn màu trắng, thẻ sim điện thoại và ống hút được cuộn bằng tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng đều có bám dính ma tuý loại Ketamine.
Công an huyện T đã Quyết định xử phạt hành chính đối với Nguyễn Khắc D, Phan Văn Tú, Trần Quang T, Bùi Thị H về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, mức phạt mỗi người là 750.000 đồng theo quy định tại khoản 1 Điều 21 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12-11-2013 của Chính phủ.
Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra theo lời khai của C về người đàn ông tên Hải bán ma túy cho C ngày 19-5-2020 nhưng không có căn cứ để chứng minh làm rõ và xử lý trong vụ án này. Đối với Nguyễn Văn Luyến là chủ kinh doanh quán karaoke “S” không biết việc C tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý nên không đồng phạm với C.
Cáo trạng số 120/CT-VKS ngày 08-9-2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố Phan Văn C về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà, bị cáo Phan Văn C thừa nhận là người trực tiếp mua ma túy, chuẩn bị dụng cụ và cùng 4 đối tượng D, Tú, T, H sử dụng ma túy tại quán karaoke “S” thuộc thôn 2, xã Thạch Hòa, huyện T. Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi và tội danh bị truy tố theo nội dung bản Cáo trạng, bị cáo đã thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải, xin được khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện VKSND huyện T tham gia phiên tòa khẳng định có đầy đủ căn cứ truy tố Phan Văn C về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”; sau khi phân tích tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 255; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phan Văn C từ 05 năm đến 05 năm 06 tháng tù; đề nghị xử lý vật chứng theo quy định và không đề nghị áp dụng hình phạt tiền bổ sung đối với bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Việc chấp hành pháp luật tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên và người tiến hành tố tụng khác trong vụ án được thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa không có khiếu nại, tố cáo về các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng. Theo đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xác định là hợp pháp.
[2] Về tội danh: Xét lời khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai người làm chứng, vật chứng và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ được thu thập trong hồ sơ vụ án. Đủ căn cứ kết luận: Trong ngày 21-5- 2020, Phan Văn C đã thực hiện hành vi cung cấp ma túy loại MDMA và ketamine cho 04 người là Nguyễn Khắc D, Phan Văn Tú, Trần Quang T, Bùi Thị H cùng sử dụng ma túy trong phòng hát tại quán karaoke “S”. Cáo trạng của VKSND huyện T truy tố Phan Văn C về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Về tính chất, mức độ tội phạm và năng lực chịu trách nhiệm hình sự: Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến những quy định quản lý các chất ma túy trong Luật phòng, chống ma túy. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và nhận thức rõ tác hại của ma túy nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội bằng việc cung cấp ma túy cho 04 người khác sử dụng, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội.
[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và áp dụng hình phạt: Bị cáo Phan Văn C chưa có tiền án, tiền sự; không phạm vào các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Trong gia đình bị cáo có chú ruột là người có công được hưởng chế độ bệnh binh là tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo phạm tội lần đầu, hành vi tổ chức mang tính bột phát, từ nhận thức giản đơn mời nhau sử dụng ma túy tại quán hát nên so với tội phạm cùng loại thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Trên cơ sở xem xét, đánh giá về tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân bị cáo, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; Hội đồng xét xử căn cứ Điều 54 Bộ luật hình sự áp dụng hình phạt tù phù hợp dưới khung hình phạt bị cáo bị truy tố đủ để giáo dục bị cáo, góp phần răn đe, phòng ngừa tội phạm.
[5] Về hình phạt bổ sung: Xét điều kiện, hoàn cảnh kinh tế của bị cáo không có việc làm ổn định, không có khả năng thi hành hình phạt tiền bổ sung nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt tiền bổ sung đối với bị cáo.
[6] Về xử lý vật chứng: Vật chứng là ma túy loại Ketamine là chất cấm không có giá trị sử dụng, 01 đĩa sứ màu trắng, 01 thẻ sim điện thoại không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy. Vật chứng thu giữ là tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng được sử dụng vào thực hiện tội phạm nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 255; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 54 Bộ luật hình sự: Tuyên bố bị cáo Phan Văn C phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, xử phạt Phan Văn C 05 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 26-5-2023.
- Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì bên trong chứa 01 gói ma túy loại Ketamine, 01 đĩa sứ, 01 thẻ sim điện thoại có niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội. Tịch thu sung quỹ Nhà nước tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng (tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận tài sản, tang vật số 115 ngày 25-9-2023 và ủy nhiệm chi số 83 ngày 22-9-2023).
- Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án, buộc Phan Văn C phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!