Bản án số 13/2024/DS-PT ngày 27/09/2024 của TAND tỉnh Điện Biên về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 13/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 13/2024/DS-PT ngày 27/09/2024 của TAND tỉnh Điện Biên về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Điện Biên
Số hiệu: 13/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Nguyên đơn ông Phạm Công L khởi kiện yêu cầu bị đơn bà Trịnh Thị K trả tiền giá trị quyền sử dụng đất và tiền công khai phá, cải tạo đất
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐIỆN BIÊN
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 13/2024/DS-PT
Ngày: 27-9-2024
V/v Yêu cầu trả tiền giá trị
quyền sử dụng đất và tiền công
khai phá, cải tạo đất
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐIỆN BIÊN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Phương.
Các Thẩm phán: Bà Bùi Thị Thu Hằng.
Bà Phạm Thị Thu Hằng.
- Thư ký phiên tòa:Ngô Thị Hạnh - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Điện
Biên.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên tham gia phiên tòa:
Ông Đỗ Thành Đạt - Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 9 năm 2024, tại trụ sTòa án nhân dân tỉnh Điện Biên xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số: 20/2024/TLPT-DS ngày 30 tháng 7
năm 2024 về Yêu cầu trả tiền giá trị quyền sử dụng đất tiền công khai phá,
cải tạo đất”. Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 08/2024/DS-ST ngày 07/6/2024 của
Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Điện Biên bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2024/QĐ-PT ngày 22 tháng 8
năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số: 32/2024/QĐ-PT ngày
12/9/2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Phạm Công L, sinh năm 1960. Địa chỉ: Thôn H, xã T,
huyện Đ, tỉnh Điện Biên (Có mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của ông Phạm Công L: Ông Trần Ngọc T,
sinh năm 1963. Địa chỉ: Số nhà E, tổ dân phố A, phường M, thành phố Đ, tỉnh
Điện Biên (Theo Giấy ủy quyền ngày 24/10/2023) (Có mặt).
2. Bị đơn: Trịnh Thị K, sinh năm 1982. Địa chỉ: Số nhà F, tổ dân phố
F, phường N, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên (Vắng mặt có lý do).
3. Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Phạm Công L.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện các văn bản trình bày ý kiến của nguyên đơn
trong qtrình giải quyết vụ án, quá trình tranh tụng tại phiên tòa, nguyên
đơn ông Phạm Công L, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông
2
Trần Ngọc T trình bày:
Ông Phạm Công G (tên thường gọi là ông B) và bà Nguyễn Thị H là bố mẹ
đẻ của ông Phạm Công L. Năm 1980, ông G và H khai hoang và trồng rau
bon trên diện tích đất khoảng 50,92m
2
, mảnh đất chiều tim từ đường vào
18,5m, chiều bám mặt đường 8m, chiều sâu 6,365m, mảnh đất địa chỉ
tại: Thôn H, xã T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. Đến năm 1990, ông G H giao
lại cho ông L quản lý, sau khi nhận lại thửa đất, thì ông L tiếp tục sử dụng
trồng rau bon trên diện tích đất này. Sau khi ông G H chết, ông L đi
làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không đo vẽ sơ đồ cụ thể,
nên thửa đất này không trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chỉ
đất liền kề.
Khoảng năm 2008, Trịnh Thị K đi làm thủ tục nhận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất từ bố mẹ bà K là ông L1 và bà T1 cho bà K, thì bà K đã tự kê
khai thửa đất của gia đình ông L thành đất hành lang giao thông giáp với thửa
đất của bà K.
Năm 2010, giữa ông L ông Trịnh Đình L2 (bố đẻ K) xảy ra tranh
chấp đất đai đối với thửa đất này, bà K đã mời chính quyền địa phương đến giải
quyết tranh chấp đã viết cho ông L Biên bản thỏa thuận vào ngày 19/3/2010,
có nội dung: Trịnh Thị K đồng ý hỗ trợ công khai phá, cải tạo hoa màu trên
mảnh đất K dùng làm lối đi chiều dài bám quốc lộ 279 = 8m cho ông
Phạm Công L, số tiền là: 15.000.000 đồng, hạn định 30/5/2010 sẽ thanh toán”.
Sau khi viết thỏa thuận xong, đến hạn K không trả tiền cho ông L, nên ông L
vẫn quản lý, sdụng và san lấp mặt bằng thửa đất đó từ khi nhận lại của ông G
H cho đến năm 2022, sau khi Bản án dân sự thẩm số 04/2021/DS-ST
ngày 22/9/2021 của Toà án nhân dân tỉnh Điện Biên Bản án phúc thẩm số
171/2022/DS-PT ngày 15/6/2022 của Tòa án nhân dân cấp Cao tại Nội
hiệu lực pháp luật, thì ông Đào Văn N và bà Nguyễn Thị L3 là người quản lý, sử
dụng thửa đất đó, chứ ông L cũng chưa bàn giao thửa đất này cho bà K.
Tại giai đoạn sơ thẩm, trong đơn khởi kiện ông L yêu cầu bà K phải trả cho
ông giá trị thửa đất diện tích là: 50,92m
2
. Tuy nhiên, khi Toà án nhân dân
tỉnh Điện Biên giải quyết vụ án, đã tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ, thì xác
định mảnh đất tranh chấp diện tích 44m
2
, do vậy, ông không yêu cầu Toà
án xem xét thẩm định tại chỗ, đề nghị Hội đồng xét xử lấy diện tích thửa đất
44m
2
theo Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2021/DS- ST ngày 22/9/2021 và Bản án
phúc thẩm số 171/2022/DS-PT ngày 15/6/2022 của Tòa án nhân dân cấp Cao tại
Hà Nội để giải quyết vụ án này.
Căn cứ vào Biên bản thỏa thuận đề ngày 19/3/2010 giữa K ông L,
ông L yêu cầu K phải trả cho ông tổng số tiền là: 500.000.000 đồng, gồm các
khoản sau:
- Giá trị thửa đất: 430.650.000 đồng.
- Mua lắp đặt cống và bê tông thoát nước ngầm là: 6.000.000 đồng.
- Gạch xây tường bao: 7.200.000 đồng.
3
- Cát xây: 3.150.000 đồng.
- Xi măng: 6.000.000 đồng.
- C xây tường gạch: 15.000.000 đồng.
- Mua đất đổ vào: 20.000.000 đồng.
- Thuê máy xúc san lấp, tạo mặt bằng: 12.000.000 đồng.
Ngoài bảng tự các chi phí nhân công, chi phí vật liệu xây cống, cây
tường bao, chi pđổ đất, bồi bổ đất, giá trị quyền sdụng thửa đất thì ông L
không có tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh cho các yêu cầu khởi kiện này
của mình vì khi những người đổ đất, san ủi xong thì ông trả tiền cho họ và họ đi
về, còn họ là ai, ở đâu giờ ông không nhớ.
Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn bà Trịnh Thị K trình bày:
Việc ông L yêu cầu K phải bồi thường số tiền 500.000.000 đồng
không có cơ sở, nên bà K không đồng ý vì:
Năm 2008 bố mẹ bà K là ông Trịnh Đình L2 và bà Hoàng Thị T2 có cho bà
một mảnh đất tại thôn H, xã T, huyện Đ, đã được nhà nước cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, phía trước giáp quốc lộ B, phía sau giáp đất L4, phía
bên trái giáp đường vào nhà T3, phía bên phải giáp đất em trai K anh
Trịnh Đình N1. Theo đó phía trước mảnh đất của K giáp với hành lang an
toàn giao thông đường 279, hoàn toàn không mảnh đất của ai đó. Năm
2010, do không nhu cầu sử dụng nên K đã chuyển nhượng quyền sử dụng
thửa đất trên cho gia đình ông N, L3.
Khi biết K chuyển nhượng thửa đất trên cho gia đình ông N, L3 thì
ông L có làm đơn khởi kiện và cho rằng mảnh đất phía trước thuộc hành lang an
toàn giao thông phần đất của gia đình ông L khai hoang gây cản trở cho
việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bà K với gia đình ông N, L3. Sau
nhiều lần phản bác ông L vẫn cương quyết cho rằng đất đó do gia đình ông L
khai phá, dẫn đến việc chuyển nhượng đất gặp nhiều khó khăn, thời điểm đó do
mệt mỏi với việc kiện tụng, nên bà K đã trao đổi nói sẽ hỗ trợ cho ông L số
tiền 15.000.000 đồng, sau đó xét thấy mảnh đất đó thuộc hành lang an toàn giao
thông, ông L K đều không quyền mua bán, nên K không hỗ trợ cho
ông L nữa. Sau khi Tòa án các cấp xét xử vviệc do ông L khởi kiện đã xác
định việc ông L khởi kiện không căn cứ, K đã chuyển nhượng thửa đất
K được bố mẹ cho ông N, L3 không liên quan đến gia đình ông
L. Do vậy, K thấy yêu cầu của ông L không căn cứ, nên không chấp
nhận yêu cầu của ông L buộc bà phải trả cho ông L số tiền 500.000.000 đồng.
Tại Bản án dân sự thẩm số 08/2024/DS-ST ngày 07/6/2024 của Tòa
án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Điện Biên đã quyết định:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1
Điều 39, khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 274, Điều 275, Điều
280 Bộ luật Dân sự.
4
Tuyên:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Phạm ng L. Buộc
Trịnh Thị K phải trả cho ông Phạm ng L số tiền 15.000.000 đồng (Mười lăm
triệu đồng).
2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Công L yêu
cầu Trịnh Thị K phải trả cho ông L số tiền 485.000.000 đồng (Bốn trăm tám
mươi lăm triệu đồng).
Ngoài ra, bản án còn tuyên về yêu cầu thi hành án, án phí quyền kháng
cáo bản án của các đương sự theo quy định của pháp luật.
* Ngày 18 tháng 6 năm 2024, nguyên đơn ông Phạm Công L kháng cáo
toàn bộ bản án dân sự thẩm s08/2024/DS-ST ngày 07/6/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Đ, tỉnh Điện Biên, ông đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa lại
bản án dân sự thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Phạm
Công L, buộc bà Trịnh Thị K phải trả cho ông L số tiền 500.000.000 đồng.
* Ngày 10/9/2024 Tòa án nhận được Đơn đề nghị hoãn phiên tòa theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2024/QĐ-PT ngày 22/8/2024 của Tòa án
nhân dân tỉnh Điện Biên Đ đề nghị bổ sung người tham gia tố tụng của
nguyên đơn ông Phạm Công L; ngày 12/9/2024 Tòa án nhận được Đơn sửa
đổi bổ sung người tham gia tố tụng của ông L. Cụ thể ông L yêu cầu bổ sung
người tham gia như sau:
- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Bà Đặng Hương G1, Công chức địa chính xã T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên.
+ UBND T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. Người đại diện theo pháp luật:
Ông Lò Văn C1 - Chủ tịch UBND xã T.
+ Ông Văn H1, Nguyên Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân T, huyện Đ,
tỉnh Điện Biên, địa chỉ bản C, xã T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên.
+ Ủy ban nhân dân huyện Đ, tỉnh Điện Biên. Người đại diện theo pháp
luật: Ông Nguyễn Thanh B1 Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đ.
+ Cục Q Thuộc T5. Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Hưng H2,
Cục trưởng cục Q thuộc T5.
+ Ông Đào Văn N, sinh năm 1976 Nguyễn Thị L3, sinh năm 1979;
nơi thường trú: Bản H, T, huyện Đ; nơi hiện nay: Thôn H, T, huyện Đ,
tỉnh Điện Biên.
+ Ông Trịnh Đình L2, sinh năm 1955, địa chỉ: P - E Khu C, thị trấn X,
huyện C, Thành phố Hà Nội.
- Những người làm chứng:
+ Ông Trịnh Quang K1, sinh năm 1950, địa chỉ: Thôn H, T, huyện Đ,
tỉnh Điện Biên.
+ Nguyễn Thị L6, sinh năm 1933, địa chỉ: Thôn H, T, huyện Đ, tỉnh
5
Điện Biên.
+ Đào Thị T4, sinh năm 1958, địa chỉ: địa chỉ: Thôn H, T, huyện Đ,
tỉnh Điện Biên.
- Lý do bổ sung người tham gia tố tụng:
+ Để xác định giá trị quyền sdụng đất tiền công khai phá, cải tạo
thửa đất tại thời điểm khởi kiện.
+ Thửa đất của ông L đang yêu cầu bà Trịnh Thị K phải trả tiền bồi thường
theo Giấy thoả thuận bồi thường công khai phá đề ngày 19/3/2010 giữa ông L và
Trịnh Thị K, xác nhận của Ủy ban nhân dân T thửa đất nằm trong
quy hoạch hành lang giao thông, hay là đất hành lang giao thông.
+ Tổ chức, nhân nào quyền sdụng đất đối với thửa đất của ông L
đang yêu cầu Trịnh Thị K phải trả tiền bồi thường theo giấy thoả thuận bồi
thường công khai phá đề ngày 19/3/2010 giữa ông L Trịnh Thị K, xác
nhận của Ủy ban nhân dân xã T.
* Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi
kiện giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét
giải quyết lại theo quy định của pháp luật. Các bên đương sự không thỏa thuận
được với nhau về việc giải quyết vụ án.
* Ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên về việc
tuân theo pháp luật và việc giải quyết vụ án:
- Về trình tự thủ tục tố tụng: Từ khi thụ vụ án đến nay, Thẩm phán được
phân công đã thực hiện việc Thông báo cho các đương sự, Viện kiểm sát theo
đúng quy định.
- Việc chấp hành pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư
người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng đầy đủ theo quy định của
pháp luật tố tụng dân sự.
- Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ vụ án
cho đến nay, nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình
được quy định tại Điều 70, Điều 71, Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung vụ án: Sau khi phân tích nội dung vụ án, đại diện Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh Điện Biên đề nghị Hội đồng xét xphúc thẩm không chấp
nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Phạm Công L đối với Bản án dân sự
thẩm số 08/2024/DS-ST ngày 07/6/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh
Điện Biên.
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử
phúc thẩm Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên giữ nguyên Bản án dân sự thẩm
số 08/2024/DS-ST ngày 07/6/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Điện
Biên. Căn cứ khoản 1 Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12
Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội: Nguyên
đơn được miễn án phí dân sự phúc thẩm do là người cao tuổi.
6
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa, ý
kiến của Kiểm sát viên, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử phúc thẩm
thấy rằng:
[1] Về tố tụng:
Về quan hệ pháp luật: Căn cứ vào đơn khởi kiện, các tài liệu chứng cứ
trong hồ vụ án: Xác định tranh chấp giữa ông Phạm Công L, sinh năm
1960. Địa chỉ: Thôn H, T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên với bị đơn Trịnh Thị
K, sinh năm 1982. Địa chỉ: Số nhà F, tổ dân phố F, phường N, thành phố Đ, tỉnh
Điện Biên tranh chấp về dân sự, quan hệ pháp luật tranh chấp về việc yêu
cầu trả tiền giá trị quyền sử dụng đất và tiền công khai phá, cải tạo đất theo
khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về thẩm quyền: Bị đơn Trịnh Thị K, sinh năm 1982. Địa chỉ: Số nhà F,
tổ dân phố F, phường N, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên. Căn cứ điểm a khoản 1
Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành
phố Đ, tỉnh Điện Biên thụ lý, giải quyết, xét xử vụ án là có căn cứ.
[2] Về tính hợp lệ của đơn kháng cáo và đề nghị bổ sung người tham gia tố
tụng của nguyên đơn ông Phạm Công L:
- Đối với yêu cầu kháng cáo của ông Phạm ng L: Ngày 18 tháng 6 năm
2024, nguyên đơn ông Phạm Công L kháng cáo toàn bộ bản án dân sthẩm
số 08/2024/DS-ST ngày 07/6/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Điện
Biên. Việc kháng cáo được thực hiện trong thời hạn luật định, nội dung kháng
cáo quyền kháng cáo phù hợp với quy định của pháp luật. Như vậy việc
kháng cáo của ông Phạm Công L là hợp lệ, đúng theo quy định tại các Điều 271,
272, 273 và 276 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm
xem xét đơn kháng cáo của nguyên đơn theo trình tự phúc thẩm.
- Đối với đơn đề nghị bổ sung người tham gia tố tụng của ông Phạm Công
L: Hội đồng xét xử thấy rằng, do ông L đề nghị bổ sung người tham gia tố
tụng với mục đích để chứng minh ba nội dung nêu trong “Đơn sửa đổi, bổ sung
người tham gia tố tụng” đề ngày 12/9/2024. Những nội dung ông viết trong đơn
này đã được xem xét, giải quyết theo Bản án số 04/2021/DS-ST ngày 22/9/2021
của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên và Bản án số 171/2022/DS-PT ngày
15/6/2022 của Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội đã có hiệu lực pháp luật. Nội
dung hai bản án khẳng định: Diện tích đất mà ông L yêu cầu bà K phải trả giá trị
quyền sử dụng đất tiền công khai phá, cải tạo đất đất hành lang an toàn
đường bộ. Căn cứ Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử không chấp
nhận yêu cầu bổ sung người tham gia tố tụng của ông Phạm ng L, đây
những tình tiết sự kiện không phải chứng minh, do đã được xác định trong bản
án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
[3] Về sự vắng mặt của đương sự tại phiên tòa phúc thẩm: Hội đồng xét
xử căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự, tiến hành xét
7
xử vắng mặt bị đơn Trịnh Thị K, do bà K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ
hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa, bà K có đơn xin xét xử vắng mặt.
[4] Về nội dung: Xét nội dung kháng cáo của ông Phạm Công L, kháng
cáo toàn bộ bản án dân sự thẩm số 08/2024/DS-ST ngày 07/6/2024 của Tòa
án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Điện Biên, với do thửa đất diện tích
50,92m
2
theo Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ tại Bản án sơ thẩm s
04/2021/DS-ST ngày 22/9/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên 8m x
5,5m = 44 m
2
đất khai hoang của cha mẹ ông L (là cụ G, cụ H) khai hoang từ
năm 1982, sau đó đlại cho ông L, diện tích đất 44 m
2
không
phải đất hành
lang giao thông. Việc bà K chuyển nhượng thửa đất của ông L cho ông N, bà L3
thì phải trả cho ông L số tiền 500.000.000 đồng (bao gồm chi phí nhân công,
chi phí vật liệu xây cống, cây tường bao, chi phí đổ đất, bồi bổ đất; giá trị quyền
sử dụng thửa đất).
Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng, tại Bản án dân sự sơ thẩm số
04/2021/DS-ST ngày 22/9/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên Bản án
dân sự phúc thẩm số 171/2022/DS-PT ngày 15/6/2022 của Tòa án nhân dân Cấp
cao tại Nội đã xác định: Về nguồn gốc thửa đất diện tích 44m
2
tại địa chỉ
thôn H, T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên đất hành lang an toàn giao thông
đường quốc lộ 279, hiện được giao cho gia đình ông N, L3 quản lý, không
phải đất của gia đình ông L cũng không phải đất của gia đình ông N. Do đó,
việc ông L yêu cầu bà K phải trả cho ông giá trị thửa đất với số tiền là:
430.650.000 đồng là không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu này của ông L.
Ngoài ra, ông L còn yêu cầu K phải trả cho ông L công khai phá, cải tạo
thửa đất với số tiền 69.350.000 đồng, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng,
vào ngày 19/3/2010, bà K và ông L đã có văn bản tự nguyện thoả thuận với nhau
về việc K đồng ý hỗ trợ công khai phá, cải tạo hoa màu trên mảnh đất
K dùng làm lối đi có chiều dài bám quốc lộ 279 = 8m cho ông Phạm Công L,
số tiền là: 15.000.000 đồng, hạn định 30/5/2010 sẽ thanh toán”, nhưng đến hạn
K không trả cho ông L khoản tiền này, nên cần chấp nhận một phần yêu cầu
khởi kiện của ông L, buộc bà K phải trả cho ông L số tiền 15.000.000 đồng theo
biên bản thoả thuận đề ngày 19/3/2010.
Tòa án cấp thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện này của nguyên
đơn ông Phạm Công L buộc bị đơn Trịnh Thị K phải trả cho ông L số tiền
15.000.000 đồng tiền công khai phá, cải tạo đất; không chấp nhận yêu cầu buộc
K phải trả số tiền 485.000.000 đồng căn cứ, đúng theo quy định tại các
Điều 274, 275 và 280 Bộ luật Dân sự 2015.
Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng Tòa án
cấp thẩm đã xem xét đầy đủ, toàn diện, đánh giá tài liệu chứng cứ, lời trình
bày của các đương sự một cách khách quan, đúng quy định của pháp luật nên
không căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Phạm Công
L.
[5] Về án phí dân sự thẩm: Bị đơn Trịnh Thị K phải chịu 750.000
đồng án phí dân sthẩm giá ngạch, nguyên đơn ông Phạm Công L được
8
miễn án phí theo quy định của pháp luật.
[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 148 Bộ
luật Tố tụng dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Do kháng cáo của nguyên đơn ông Phạm Công L không được chấp nhận
nên ông Phạm Công L phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự phúc thẩm, tuy
nhiên do ông Phạm Công L là người cao tuổi (64 tuổi) nên được miễn án phí dân
sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308; khoản 1 Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ các Điều 274, Điều 275, Điều 280 Bộ luật Dân sự năm 2015;
Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 1 Điều 29 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Phạm Công L.
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm s08/2024/DS-ST ngày 07/6/2024 của
Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Điện Biên.
2. Về án phí phúc thẩm:
Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm đ
khoản 1 Điều 12, khoản 1 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản sdụng án phí, lệ phí Tòa án. Miễn án phí dân sự phúc
thẩm cho nguyên đơn ông Phạm Công L.
Bản án phúc thẩm hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày
27/9/2024).
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên;
- VKSND TP. Đ, tỉnh Điện Biên;
- TAND TP. Đ, tỉnh Điện Biên;
- Chi cục THADS thành phố Đ, tỉnh Điện
Biên;
- Các đương sự;
- Lưu HSVA, HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Văn Phương
9
Tải về
Bản án số 13/2024/DS-PT Bản án số 13/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 13/2024/DS-PT Bản án số 13/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất