Bản án số 12/2021/HS-ST ngày 15/07/2021 của TAND huyện Minh Long, tỉnh Quảng Ngãi

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 12/2021/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 12/2021/HS-ST ngày 15/07/2021 của TAND huyện Minh Long, tỉnh Quảng Ngãi
Tội danh:
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Minh Long (TAND tỉnh Quảng Ngãi)
Số hiệu: 12/2021/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 15/07/2021
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M, TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 12/2021/HS-ST NGÀY 15/07/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 15 tháng 7 năm 2021, tại Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 13/2021/TLST-HS, ngày 06 tháng 5 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/ 2021/ QĐXXST- HS, ngày 25 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

LÊ VĂN V, sinh ngày 20 tháng 4 năm 1973 tại huyện M, tỉnh Quảng Ngãi; Nơi cư trú: Thôn 4, xã Đ, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi; Nghề nghiệp: Nông; Trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn H, sinh năm 1935 (chết) và bà Trần Thị L, sinh năm 1937; Vợ Chu Thị H, sinh năm 1980; Con Lê Thị Mỹ Vân sinh năm 2004 và Lê Thị Mỹ K, sinh năm 2010; Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 12/01/2021 cho đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại: Ông Nguyễn Văn A, sinh năm 1970 (đã chết)

* Người đại diện hợp pháp của bị hại:

+ Bà Cao Thị H, sinh năm 1971 (vợ của bị hại)

 + Chị Nguyễn Thị H1, sinh năm 1994 (con của bị hại)

+ Anh Nguyễn Văn V, sinh năm 1996 (con của bị hại).

Chị H và anh V ủy quyền cho bà H tham gia tố tụng (theo Giấy ủy quyền ngày 04.7.2021) Cùng địa chỉ: Thôn 2, xã Đ, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi

* Người làm chứng

+ Ông Phạm L, sinh năm 1971 Địa chỉ: Thôn L, xã Đ, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi.

+Ông Diệp T, sinh năm 1982 Địa chỉ: thôn P, xã Đ, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi

+ Bà Lê Thị Sa L, sinh năm 1982 Địa chỉ: Thôn 2, xã Đ, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có mối quan hệ quen biết nhau từ trước nên khoảng 13 giờ 30 phút ngày 29/9/2020 Nguyễn Văn A (tên thường gọi là S), Lê Văn V, Phạm L, và Diệp T cùng ăn nhậu tại quán L thuộc thôn A, xã Đ, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi. Trong quá trình ăn nhậu thì giữa ông A và bị cáo V xảy ra mâu thuẫn cãi vã và thách đố đòi đánh nhau tại bàn nhậu nhưng được ông L và ông T can ngăn. Sau đó, bị cáo V bỏ đi ra khỏi quán để lấy xe đi về thì ông A cũng đi theo, đến gần cổng của quán thì ông A kéo theo 01 cái ghế tựa bằng nhựa đòi đánh nhau với bị cáo V nhưng được mọi người ở đó can ngăn nên ông A bỏ lại ghế rồi đi bộ đến chỗ bị cáo V đang đứng tại khu vực nền bê tông phía trước quán L. Lúc này, bị cáo V và ông A tiếp tục cãi vã nhau, ông A dùng tay đánh 01 cái về phía mặt bị cáo V thì bị cáo V tránh né được nên không trúng. Sau đó, bị cáo V dùng hai tay đánh lại ông A thì trúng vào người và dùng tay phải đánh 01 cái trúng vào vùng mặt bên trái của ông A làm ông A ngã ngửa về sau đập đầu xuống đất. Hậu quả làm ông A bị thương được đưa đến Trung tâm Y tế huyện M cấp cứu, sau đó được chuyển đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ngãi cấp cứu và được chuyển đến Bệnh viện Đà Nẵng nhập viện điều trị. Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 299/TgT, ngày 18/12/2020 của Trung tâm Pháp y tỉnh Quảng Ngãi kết luận 1. Dấu hiệu chính qua giám định: Tổn thương não gây di chứng sống kiểu thực vật.

2. Kết luận:

- Tổn thương não gây di chứng sống kiểu thực vật.

- Tổn thương sọ não để lại di chứng não, phù hợp với vật tày gây thương tích.

Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 99% (chín mươi chín phần trăm).

- Bản kết luận giám định số 150/KLGD-PC09 ngày 20/3/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Ngãi, kết luận nội dung trong đĩa CD được trích xuất từ ổ cứng đầu ghi Camera của Quán L thuộc thôn A, Đức H, Mộ Đức, Quảng Ngãi vào ngày 29/9/2020: Có 17 hình ảnh đại diện thể hiện diễn biến vụ việc liên quan đến nội dung yêu cầu giám định xảy ra ngày 29/9/2020 được trích xuất ra bản ảnh. Các hình ảnh được trích xuất thể hiện đặc điểm của đối tượng là nam giới, đội mũ lưỡi trai, mặc áo thun ngắn tay, quần dài tại thời điểm xảy ra vụ việc đối tượng di chuyển ra khỏi khung ghi hình của camera, vì vậy không xác định được hành vi, công cụ, phương tiện, đối tượng sử dụng để phạm tội.

Trong quá trình điều tra vụ án, vào ngày 03/02/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện M nhận được tin báo của Công an xã Đ về việc ông Nguyễn Văn A chết tại nhà riêng thuộc thôn 2, xã Đ, huyện M, tỉnh Quảng Ngãi. Sau khi tiếp nhận tin báo, Cơ quan CSĐT Công an huyện M đã phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân huyện M và chính quyền địa phương đến yêu cầu gia đình ông A phối hợp khám nghiệm tử thi để xác định nguyên nhân chết của ông A. Tuy nhiên, gia đình ông A xác định việc ông A bị đánh vào ngày 29/9/2020 đã được giám định đúng theo quy định của pháp luật nên đã từ chối khám nghiệm tử thi và không có yêu cầu gì khác liên quan đến cái chết của ông A, Vì vậy, không có cơ sở để xác định nguyên nhân chết của ông A là do hành vi gây thương tích của bị cáo V gây ra Bản cáo trạng số: 08/CT - VKS, ngày 05 tháng 5 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, tỉnh Quảng Ngãi đã truy tố Lê Văn V về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo Lê Văn V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng. Đại diện Viện kiểm sát đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đồng thời giữ nguyên quyết định đã truy tố và đưa ra các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lê Văn V phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 143; điểm b, e, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Lê Văn V từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không có ý kiến đối đáp tranh luận gì; bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục và thẩm quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Lê Văn V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai người làm chứng cũng như các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 29/9/2020 ông Nguyễn Văn A tên thường gọi là S) và bị cáo Lê Văn V xảy ra mâu thuẫn cãi vã và thách đố đòi đánh nhau. Trong lúc hai bên xô xát, ông A dùng tay đánh 01 cái về phía mặt bị cáo V thì bị cáo V tránh né được nên không trúng. Sau đó, bị cáo V dùng hai tay đánh lại ông A thì trúng vào người và dùng tay phải đánh 01 cái trúng vào vùng mặt bên trái của ông A làm ông A ngã ngửa về sau, đập đầu xuống đất, Hậu quả làm ông A bị thương tích 99%.

Hành vi của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, vi phạm quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của công dân. Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi đánh vào người bị hại có thể gây thương tích cho nạn nhân, nhưng bị cáo thiếu kiềm chế bản thân nên đã thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người khác. Từ những căn cứ nêu trên đủ cơ sở để kết luận hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” tội phạm và hình phạt quy định tại điểm a khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Vì vậy, bản cáo trạng số 08/CT - VKS, ngày 05 tháng 5 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, tỉnh Quảng Ngãi đã truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật nêu trên là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi bị cáo thực hiện: Do mâu thuẫn trong việc ăn nhậu mà bị cáo đã dùng vũ lực xâm hại sức khỏe người khác, thể hiện tính xem thường pháp luật, đồng thời làm mất trật tự trị an tại địa phương, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân. Vì vậy cần phải có một mức án tương xứng với hành vị bị cáo gây ra nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo chấp hành nghiêm pháp luật và răn đe phòng ngừa chung. Tuy nhiên, trong quá trình cãi vã thì người bị hại đã đánh bị cáo trước, mặc dù không trúng vào người bị cáo nhưng hành vi của người bị hại là trái pháp luật và có một phần lỗi nên Hội đồng xét xử cũng xem xét khi lượng hình đối với bị cáo.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định của Bộ luật hình sự. Tại cơ quan Điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi, bồi thường thiệt hại cho gia đình người bị hại, gia đình bị cáo là người có công với Nhà nước. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên cần áp dụng Điều 52 của Bộ Luật hình sự để thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước đối với bị cáo. Với tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đã phân tích trên. Xét thấy bị cáo không có khả năng tự cải tạo, nên phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe và đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho gia đình người bị hại số tiền 79.000.000 đồng. Tại phiên tòa, người đại diện của bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại quy định tại khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số:326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[7] Về đề nghị của Viện kiểm sát: Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm xử lý đối với hành vi phạm tội của bị cáo về tội danh; điều khoản; về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; về mức hình phạt; về phần dân sự; xử lý vật chứng phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[8] Quyền kháng cáo: Bị cáo, Người đại diện hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 331, 233, 234 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào điểm a khoản 3 Điều 134; Điều 38; các điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự, Căn cứ Điều 292, Điều 293, Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Lê Văn V phạm tội “Cố ý gây thương tích”

2.Xử phạt bị cáo Lê Văn V 03 (Ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Lê Văn V phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện của bị hại có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Tải về
Bản án số 12/2021/HS-ST Bản án số 12/2021/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất