Bản án số 114/2023/HS-ST ngày 25/12/2023 của TAND TX. Kinh Môn, tỉnh Hải Dương về tội mua bán trái phép chất ma tuý

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 114/2023/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 114/2023/HS-ST ngày 25/12/2023 của TAND TX. Kinh Môn, tỉnh Hải Dương về tội mua bán trái phép chất ma tuý
Tội danh:
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TX. Kinh Môn (TAND tỉnh Hải Dương)
Số hiệu: 114/2023/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 25/12/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ KINH MÔN, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 114/2023/HS-ST NGÀY 25/12/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 25/12/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 122/2023/TLST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 100/2023/QĐXXST - HS ngày 11 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Văn P, sinh năm 1992 tại: Thị xã K, tỉnh Hải Dương; nơi ĐKHKTT: Khu dân cư B, phường M, thị xã K, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Văn N và bà Trần Thị V; vợ là: Vũ Thị Ngọc A; có 02 con: Con lớn sinh năm 2016, con nhỏ sinh năm 2022; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28/9/2023 đến ngày 04/10/2023 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương đến nay - Có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng: Anh Lê Văn Đ, anh Lê Văn V và anh Trần Hải V - Đều vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 27/9/2023, Lê Văn P gặp Lê Văn Đ, sinh năm 1985; trú tại: Khu dân cư B, phường M, thị xã K, tỉnh Hải Dương. Đ hỏi mua của P ma túy “đá” với giá 300.0000 đồng, mục đích để sử dụng, P đồng ý và hẹn sẽ giao ma túy tại nhà của Đ. Khoảng 13 giờ cùng ngày, P bắt xe ôm của người đàn ông không quen biết đến khu vực ga P thuộc huyện K, tỉnh Hải Dương để tìm mua ma túy. Tại đây, P mua được 01 túi ma túy với giá 200.000 đồng của 01 người đàn ông không quen biết. Sau đó, P thuê xe ôm đi đến nhà Đ. Khoảng 14 giờ 20 phút cùng ngày, P đến nhà Đ, P vào trong nhà gặp Đ đưa gói ma túy cho Đ, Đ đưa cho P số tiền 300.000 đồng. Vừa lúc này thì Tổ công tác thuộc Công an phường M phát hiện bắt quả tang. Thu giữ tại túi quần bên trái của Lê Văn Đ 01 túi nilon chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng (được niêm phong trong phong bì ký hiệu M1); Thu giữ của Lê Văn P số tiền 300.000 đồng (được niêm phong ký hiệu T2). Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng. Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lê Văn P kết quả: không phát hiện thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan đến vụ án.

Tại bản Kết luận giám định số 478/KL- KTHS ngày 30/9/2023, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng được niêm phong trong phong bì ký hiệu M1 thu giữ của Lê Văn Đ gửi đến giám định, có khối lượng 0,093 gam, là ma túy loại Methamphetamine. Hoàn lại 0,057 gam ma túy loại Methamphetamine; 01 vỏ túi nilon màu trắng và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật ký hiệu M1 gửi đến giám định.

Tại Cáo trạng số 116/CT-VKS ngày 30 tháng 11 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương đã truy tố Lê Văn P về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Lê Văn P thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kinh Môn đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kinh Môn thực hành quyền công tố, trình bày luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Tuyên bố bị cáo Lê Văn P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Xử phạt Lê Văn P từ 25 đến 28 tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 28/9/2023. Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề xuất về việc xử lý vật chứng và án phí của vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra Công an thị xã K, tỉnh Hải Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương, Kiểm sát viên thu thập, những người tham gia tố tụng cung cấp; hành vi, quyết định tố tụng do Điều tra viên, Kiểm sát viên thực hiện trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa không có khiếu nại hoặc tố cáo. Do đó xác định những chứng cứ, tài liệu đã thu thập; các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của Lê Văn P tại phiên toà phù hợp với lời khai, bản cung của bị cáo trong quá trình điều tra vụ án, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng của vụ án đã thu giữ được, lời khai của người làm chứng, bản kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14 giờ 20 phút ngày 27/9/2023 tại chỗ ở của Lê Văn Đ ở khu dân cư B, phường M, thị xã K, tỉnh Hải Dương, Lê Văn P có hành vi bán cho Lê Văn Đ 0,093 gam là ma túy loại Methamphetamine lấy số tiền 300.000 đồng bị phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Hành vi nêu trên của Lê Văn P đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự, bởi lẽ:

[3] Hành vi của Lê Văn P là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về việc trao đổi chất ma tuý - Một khách thể mà Bộ luật Hình sự đã quy định và bảo vệ. Với mục đích mua ma túy để bán kiếm lời, bị cáo đã bất chấp pháp luật của Nhà nước, lén lút mua ma túy mang về bán cho Lê Văn Đ với số lượng là 0,093 gam là ma túy loại Methamphetamine lấy số tiền 300.000 đồng làm mất trật tự trị an trên địa bàn, gây dư luận xấu trong nhân dân. Nhà nước ta đã có chế độ quản lý ngặt nghèo đối với ma tuý, nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, mua bán, vận chuyển, tàng trữ, sử dụng… trái phép chất ma túy. Nhà nước đã tuyên truyền rộng rãi dưới nhiều hình thức về hiểm hoạ của ma tuý và pháp luật của Nhà nước đối với ma tuý. Bản thân bị cáo đã hiểu rõ tác hại của ma tuý đối với sức khoẻ, tính mạng của con người. Nhưng do thiếu sự tu dưỡng, rèn luyện bản thân, bị cáo đã vi phạm pháp luật của Nhà nước. Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn thực hiện. Do vậy Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kinh Môn đã truy tố Lê Văn P về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Với hành vi của mình, bị cáo phải chịu một hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi mà bị cáo đã gây ra, để hình phạt đó không chỉ là sự trừng trị của pháp luật đối với người phạm tội mà còn là bài học để răn đe, giáo dục chung trong cộng đồng.

[4] Xem xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, thấy rằng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có nhân tốt, lần đầu phạm tội, bản thân chưa có tiền án, tiền sự.

[5] Xét cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng răn đe và giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét tính chất, mức độ hành vi, hoàn cảnh kinh tế, gia đình của bị cáo thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu giữ của bị cáo 0,093 gam là ma túy loại Methamphetamine. Sau khi giám định, Cơ quan giám định hoàn lại 0,057 gam, đây vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu cho tiêu hủy. Ngoài ra, đối với 01 vỏ túi nilon màu trắng và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật ký hiệu M1 gửi đến giám định xét không có giá trị cần thu giữ cho tiêu hủy. Đối với số tiền 300.000 đồng (được giám định là tiền thật) là tiền do phạm tội mà có nên cần tịch thu sung công quỹ nhà nước.

[8] Trong vụ án này, Lê Văn P khai mua ma tuý của 01 người đàn ông không quen biết và thuê xe ôm của người đàn ông không quen biết. Quá trình điều tra không xác định được họ tên, tuổi, địa chỉ, Cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý.

Đối với Lê Văn Đ: Quá trình điều tra xác định Đ chưa có tiền án, tiền sự về ma túy, mục đích Đ mua ma túy về để sử dụng. Do đó hành vi tàng trữ trái phép 0,093 gam ma túy, loại Methemphetamine của Đ không cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã K đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền đối với Đ.

[9] Về án phí: Bị cáo P bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Tuyên bố bị cáo Lê Văn P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt bị cáo Lê Văn P 25 (hai mươi lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 28/9/2023.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu cho tiêu hủy 0,057 gam ma túy loại Methamphetamine. Thu giữ cho tiêu hủy 01 vỏ túi nilon màu trắng và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật ký hiệu M1 gửi đến giám định (Được niêm phong trong phong bì số 478/KL-KTHS); tịch thu sung công quỹ nhà nước 300.000 đồng được niêm phong trong phong bì số 276/KL- KTHS (Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 20/12/2023 của Công an thị xã K và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã K).

Về án phí: Buộc bị cáo Lê Văn P phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Báo bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Tải về
Bản án số 114/2023/HS-ST Bản án số 114/2023/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất