Bản án số 104/2023/HS-ST ngày 22/08/2023 của TAND TP. Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi về tội vận chuyển trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 104/2023/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 104/2023/HS-ST ngày 22/08/2023 của TAND TP. Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi về tội vận chuyển trái phép chất ma túy
Tội danh: 250.Tội vận chuyển trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Quảng Ngãi (TAND tỉnh Quảng Ngãi)
Số hiệu: 104/2023/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 22/08/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI
TỈNH QUẢNG NGÃI
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 104/2023/HS-ST
Ngày: 22 - 8 - 2023
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI, TỈNH QUẢNG NGÃI
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Nguyễn Chí Thương
Các Hội thẩm nhân dân:
+ Bà Nguyễn ThSong Trà
+ Bà Nguyễn Thị Minh Thư
- Thư ký phiên tòa: Ông Vũ Anh Tuấn - Thư ký Tòa án nhân dân thành phố
Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng
Ngãi tham gia phiên tòa:Đinh Thị Thùy Dương Kiểm sát viên.
Trong các ngày 16 ngày 22 tháng 8 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân
dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi xét x sơ thẩm công khai vụ án nh s
sơ thẩm
th lý số: 114/2023/TLST-HS ny 30 tng 6 năm 2023, theo Quyết định đưa
v án ra xét xử số: 198/2023/XXST-HS ngày 17 tháng 7 m 2023 đối với bị
cáo:
- Ngọc S, sinh ngày 03 tháng 5 năm 2003, tại Quảng Ngãi. Nơi trú:
Thôn 6, xã Tr, huyện T, tỉnh Quảng Ngãi. Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá
(học vấn): 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt
Nam; Con ông Ngọc Th, sinh năm 1968 Thị H, sinh năm 1975; Bị
cáo chưa vợ con; Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/6/2022 đến nay tại Nhà tạm giữ
Công an thành phố Quảng Ngãi. Có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyn lợi, nghĩa vụ liên quan: Ch Vương Thị L, sinh năm 2000.
Trú ti: Thôn Ph, xã B, huyn Th, tnh Qung Nam. Vng mt
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu trong hồ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
2
Vào khoảng đầu tháng 5/2022, bị cáo Lê Ngọc S đến thuê trọ tại số nhà 32/4
Phan H, phường T, thành phố Q gặp quen biết chị Vương Thị L (Sinh năm
2000; HKTT: B, huyện Th, tỉnh Quảng Nam; Tên gọi khác Min làm nghề
“tiếp bay” và “tiếp bia”). Tại đây, Vương Thị L thường xuyên nhờ bị cáo S chở đi
làm với mang đồ (quần, áo và các vật dụng cá nhân khác) cho L đồng thời L sẽ trả
tiền cho S. Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 02/6/2022, khi bị cáo S đang phòng trọ
thì Vương Thị L nói Sơn chở L xuống quán Karaoke Hải Dương thuộc xã T ,
thành phố Q để tiếp bia cho khách hát. Bị cáo S đồng ý và chở L xuống quán
Karaoke Hải Dương rồi quay trở vnhà trọ để ngủ. Khoảng 17 giờ 15 phút cùng
ngày thì L gọi điện thoại cho bị cáo S qua ứng dụng Zalo nói Sơn mang quần áo
xuống quán Karaoke Hải Dương cho L, bị cáo đồng ý nhưng chưa đi liền vẫn
còn nằm phòng ngủ; khoảng 17 giờ 30 phút thì cuộc gọi đến từ Zalo của L
nhưng giọng người đàn ông giới thiệu khách của L nói bị cáo S nữa mang
quần áo xuống cho L tmang giúp ma túy xuống quán Karaoke Hải Dương
cùng sử dụng chung trong thời gian đợi chở L về lại phòng trọ. Bị cáo S đồng ý,
sau đó gửi số điện thoại 0366657285 của bị cáo cho khách của L qua Zalo của L
để đưa cho người bán ma túy liên lạc với Sơn và đưa ma túy cho Sơn mang xuống
quán Karaoke Hải Dương. Khoảng 18 giờ 20 phút một người thanh niên gọi
điện thoại cho bị cáo S hẹn đến hẻm 121 đường H, thành phố Q đlấy ma túy. Bị
cáo điều khiển xe mô tô mang BKS 76P1-090.87 đến đoạn đường trên thì gặp một
người thanh niên (Bị cáo không biết họ tên, địa chỉ) chỉ cho bị cáo gói thuốc
“WHITE HOUSE” bên trong có chứa 01 (Một) túi ni lông màu trắng chứa ma túy
“Khay” 04 (Bốn) viên ma túy Kẹo” gần đó. Bị cáo S lấy được ma túy cất
vào trong túi quần rồi mang xuống quán Karaoke Hải Dương, nhưng khi đang trên
đường đi thì bị lực lượng Công an tỉnh Quảng Ngãi kiểm tra, phát hiện trên người
bị o S cất giấu 04 viên nén màu xanh không hình dạng 01 (một) túi nylon
màu trắng bên trong chứa chất rắn màu trắng (Bị cáo S khai ma túy). Công an
tỉnh Quảng Ngãi tiến hành lập biên bản bắt người hành vi phạm tội quả tang
đối với Lê Ngọc S, tạm giữ, niêm phong số ma túy trên theo quy định cùng một số
đồ vật, tài liệu có liên quan.
Tại Bản kết luận giám định số: 522/KL-KTHS ngày 09/6/2022 của Phòng
Kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi kết luận:
- 04 (Bốn) viên nén màu xanh bên trong phong gửi giám định ma túy,
loại: MDMA; khối lượng mẫu: 1,31 gam.
- Chất rắn màu trắng bên trong phong gửi giám định ma túy, loại:
Ketamine; khối lượng mẫu: 1,16 gam.
- Tại bản cáo trạng số 149/CT-VKS ngày 17/11/2022, Viện kiểm sát nhân
dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi truy tố Ngọc S phạm tội Tàng
trữ trái phép chất ma túy quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
- Ngày 14/3/2023, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh
Quảng Ngãi ban hành cáo trạng số 63/CT-VKS thay thế bản cáo trạng số 149/CT-
3
VKS ngày 17/11/2022; truy tbị cáo Ngọc S phạm tội Vận chuyển trái phép
chất ma túy quy định tại điểm i khoản 1 Điều 250 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi giữ
nguyên quyết định truy tố theo bản cáo trạng số 63/CT-VKS ngày 14/3/2023 và đề
nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lê Ngọc S phạm tội Vận chuyển trái phép
chất ma túy”.
- Áp dng đim i khoản 1 Điều 250, điểm s khon 1 khon 2 Điu 51,
Điu 38 B lut hình s, x pht b cáo Ngọc S t 02 năm đến 02 năm 06
tháng tù, thi hn chp hành hình pht tính t ngày b cáo b bt tm gi, tm
giam.
Về xử lý vật chứng:
- Áp dụng Điều 47 B lut Hình sự; Điều 89, 106 B lut t tng hình s
2015:
Đề ngh Hội đồng xét x tuyên tch thu tiêu hy:
- 0,95 gam mẫu ma túy, loại Ketamine (mẫu còn lại sau giám định) 1,12
gam mẫu ma túy, loại MDMA (mẫu còn lại sau giám định) cùng toàn bộ vỏ bao
gói niêm phong và 01 (một) vỏ bao thuốc lá “WHITE HORSE”.
Đề nghị tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động mặt sau có
chữ iphone, màu đen, bên trong điện thoại gắn 01 (một) thẻ sim Viettel, đây
điện thoại di động Lê Ngọc S dùng để liên lạc với đối tượng bán ma túy.
- Trả lại cho bị cáo: 01 (mt) thẻ n cước công dân số 051203007638, họ
tên: NGỌC S. 01 (một) thẻ ATM ngân hàng Vietcombank số
9704365522355097015, mang tên “LE NGỌC SƠN”. 01 (một) thẻ ATM ngân
hàng Sacombank số 9704030635199802, mang tên “LE NGỌC SƠN”.
- Trả lại cho chị Vương Thị L 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone, màu
vàng đồng, bên trong máy điện thoại có gắn thẻ sim Viettel.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên sở nội dung vụ án, n cứ o c tài liệu có trong hồ vụ án đã
được tranh tụng tại phn tòa, Hội đồngt xử nhận định n sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của quan Cảnh sát Điều tra Công an
thành phố Quảng Ngãi, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng
Ngãi, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm
quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều
tra và tại phiên tòa, bị cáo những người tham gia tố tụng khác không ý kiến
hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của quan tiến hành tố tụng người
thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan
tiến hành tố tụng, người thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp
pháp.
[2] Tại phiên tòa, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị ơng Thị L
4
vắng mặt đơn xin xét xử vắng mặt. Việc vắng mặt của chị Vương Thị L không
ảnh hưởng đến việc xét xử. Do đó, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án
theo quy định tại Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
[3] Về giới hạn việc xét xử: Sau khi thụ lý, Tòa án Hội đồng xét xử xét
thấy vụ án còn đồng phạm khác hoặc người khác thực hiện hành vi mà Bộ
luật hình sự quy định tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ
án, khởi tố bị can nên đã trả hđiều tra bổ sung 02 lần. Tuy nhiên, Viện kiểm
sát nhân dân thành phố vẫn giữ nguyên quyết định truy tố. Căn cứ giới hạn của
việc xét xử quy định tại Điều 298 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng
xét xử chỉ xét xử những bị cáo những hành vi theo tội danh Viện kiểm sát
truy tố và Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử.
[4] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa thẩm, bị cáo Ngọc
S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng của Viện
kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi đã truy t đối với bị cáo. Lời khai của
bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, nên có cơ
sở xác định:
Chiều ngày 02/6/2022, sau khi bị cáo Ngọc S chở chị ơng Thị L
xuống quán Karaoke Hải Dương để chị L tiếp bia cho khách, bị cáo quay về
phòng trọ nghỉ ngơi. Một lúc sau thì cuộc gọi đến từ Zalo của Vương Thị L
nhưng giọng của một người đàn ông (không nhân thân lai lịch) giới thiệu
khách hát Karaoke của L nhờ bị cáo S khi nào đem quần áo xuống cho L thì đem
giúp ma túy xuống quán Karaoke Hải Dương cùng sử dụng chung. Khoảng 18
giờ 20 phút cùng ngày, một người thanh niên gọi điện thoại cho bcáo hẹn đến
hẻm 121 đường H, thành phố Q để lấy ma túy. Bị cáo điều khiển xe mang
BKS 76P1-090.87 đến đoạn đường trên thì gặp một người thanh niên (Bị cáo
không biết họ tên, địa chỉ) chỉ cho bị cáo gói thuốc “WHITE HOUSE” bên trong
chứa 01 (Một) túi ni lông màu trắng chứa ma túy “Khay” 04 (Bốn) viên ma
túy Kẹo” gần đó. Bị cáo lấy được ma túy cất vào trong túi quần với mục đích
mang xuống quán Karaoke Hải Dương giao cho khách hát của chị L, nhưng khi
đang đi trên đường thì bị lực lượng Công an tỉnh Quảng Ngãi kiểm tra, phát hiện.
Tại Bản kết luận giám định số: 522/KL-KTHS ngày 09/6/2022 của Phòng
Kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi kết luận:
- 04 (Bốn) viên nén màu xanh bên trong phong gửi giám định ma y,
loại: MDMA; khối lượng mẫu: 1,31 gam.
- Chất rắn màu trắng bên trong phong gửi giám định ma túy, loại:
Ketamine; khối lượng mẫu: 1,16 gam.
Căn cứ Điu 5 Ngh định s 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 ca Chính
ph quy đnh v vic tính tng khối lượng hoc th tích cht ma túy ti mt s
điu ca B lut Hình s năm 2015: Tổng t l phần trăm khối lượng các cht ma
túy MDMA và Ketamine so vi mc ti thiểu đối vi tng chất quy định ti khon
2 Điều 250 B lut Hình s năm 2015 là: (1,16gam/20gam x 100%) + (1,31
5
gam/5gam x 100%) = 32% < 100%. Do đó, Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu
thành tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” quy định tại điểm i Khoản 1 Điều
250 của Bộ luật Hình sự.
Ngày 10/6/2022, quan CSĐT Công an TP Quảng Ngãi trưng cầu giám
định Phòng Kỹ thuật hình sự (PC09) giám định dliệu di động điện thoại thu giữ
của Lê Ngọc SVương Thị L theo Quyết định trưng cầu số: 246/QĐ-CSĐT.
Ngày 05/9/2022, Phòng Kỹ thuật hình sự (PC09) Công an tỉnh Quảng Ngãi
kết luận giám định số: 571/KL-KTHS trả lời nội dung trưng cầu giám định của
Cơ quan điều tra:
Dữ liệu trích xuất trong điện thoại di động, mặt sau chữ Iphone, màu đen
có gắn thẻ Sim Viettel của bị cáo Lê Ngọc S vào ngày 02/6/2022:
+ Cuộc gọi nhỡ: Từ số điện thoại +84976016124 (0976016124) vào thời
gian 18:51; 19:05; 19:06; 19:10.
+ Cuộc gọi đến tZalo tên Min Min đến Zalo tên Ngọc Sơn vào thời gian:
17:13; 17:32.
+ Dữ liệu tin nhắn trích xuất trong ứng dụng Zalo giữa Min Min Ngọc
Sơn có phụ lục kèm theo Kết luận giám định.
Ngọc S xác định số điện thoại +84976016124 (0976016124) Zalo tên
Min Min của đối tượng ơng Thị L dùng để liên lạc với S mà người thanh
niên (khách của L) mượn liên lạc nói Sơn nhận và mang ma túy đến quán Karaoke
Hải Dương để cùng sử dụng.
[5] Bị cáo người đầy đủ ng lực trách nhiệm hình sự, khả năng
nhận thức và điều khiển hành vi của mình; bị cáo biết rõ việc vận chuyển trái phép
chất ma túy hành vi vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Do đó, Viện
kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi truy tố bị cáo về tội “Vn chuyn trái
phép chất ma túy” theo quy đnh tại điểm i khoản 1 Điều 250 B lut hình s năm
2015, sửa đổi b sung năm 2017 có căn cứ.
[6] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Trong quá trình điều tra, truy tố tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo đã thành khẩn
khai báo nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định
tại điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo không tình tiết tăng
nặng.
[7] Hành vi của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, không nhng xâm phạm
chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy mà còn xâm phạm trật
tự an toàn xã hội. Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy
cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc, cách L bị cáo khỏi xã hội để cải tạo, giáo
dục bị o trở thành người ích cho hội, ý thức tuân thủ pháp luật, ngăn
ngừa bị o phạm tội mới, đồng thời giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, góp
phần đấu tranh phòng chống tội phạm.
6
[8] Về xử lý vật chứng:
- Tch thu tiêu hy 0,95 gam mẫu ma túy, loại Ketamine (mẫu còn lại sau
giám định) và 1,12 gam mẫu ma túy, loại MDMA (mẫu còn lại sau giám định)
cùng toàn bộ vỏ bao gói niêm phong gửi giám định được niêm phong trong cùng
một phong sô: 522/KL-KTHS, trên giáp lại nh dâu của phòng Kỹ thuật
hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi cùng chữ của: Nguyễn Ngọc Chương,
Nguyễn Văn Dũng, Phùng Đức Quang.
- 01 (một) vỏ bao thuốc lá “WHITE HORSE”.
- Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động mặt sau chữ
iphone, màu đen, bên trong điện thoại có gắn 01 (một) thẻ sim Viettel, đây điện
thoại di động của bị can Ngọc S dùng đliên lạc với đối tượng bán ma túy.
Điện thoại được bỏ trong túi niêm phong số PS3 2000337 chcủa
giám định viên và dấu tròn của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi.
- Trả lại cho bị cáo: 01 (mt) thẻ n cước công dân số 051203007638, họ
tên: “LÊ NGỌC SON”. 01 (một) thẻ ATM ngân hàng Vietcombank số
9704365522355097015, mang tên LE NGỌC SƠN”. 01 (một) thẻ ATM ngân
hàng Sacombank số 9704030635199802, mang tên “LE NGỌC SƠN”.
- Trả lại cho chị Vương Thị L 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone, màu
vàng đồng, bên trong máy điện thoại gắn thẻ sim Viettel, đây điện thoại của
Vương Thị L.
[9] Những tình tiết khác có liên quan đến vụ án:
- Đối với đối tượng bán ma túy gọi cho Ngọc S đến nhận ma túy: Bị cáo
S không biết về nhân thân, lai lịch, đặc điểm và không nhớ số điện thoại người bán
ma túy nên quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Quảng Ngãi chưa đủ
thông tin để điều tra xác minh, làm là phù hợp.
- Đối với đối tượng nam mượn điện thoại của Vương Thị L tại quán
Karaoke Hải Dương liên lạc mua ma túy vào ngày 02/6/2022: Vương Thị L không
biết về nhân thân, lai lịch của đối tượng nên quan Cảnh sát điều tra Công an
thành phố Quảng Ngãi không đủ thông tin để tiến hành xác minh, làm phù
hợp.
- Đối với chiếc xe nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu: xám đen, biển
số: 76P1 090.87; smáy: E32VE161361; số khung: 3740L048857. Qua điều tra
xác minh chiếc xe u trên là của ông Ngọc T (sinh năm 1968; HKTT: Thôn 6,
xã T, huyện Tr, tỉnh Quảng Ngãi) cha ruột của bị cáo Lê Ngọc S. Ông T cho bị cáo
Ngọc S ợn làm phương tiện đi lại, bị cáo đã sử dụng xe mô tô trên thực hiện
hành vi phạm tội, ông T không biết. Do vậy, quan điều tra đã trlại xe mô
cho chủ sở hữu là ông Lê Ngọc T là phù hợp.
[10] Kiến nghị: Tại các lời khai ban đầu của Lê Ngọc SVương Thị L đều
thể hiện: Đối tượng Vương Thị L điện thoại cho bị cáo S mang ma túy xuống quán
Karaoke Hải ơng cho khách hát và cho bị cáo sử dụng chung. Lời khai của bị
7
cáo đối tượng L phù hợp với nội dung tin nhắn Zalo giữa bị cáo Vương Thị
L trích xuất dữ liệu trong điện thoại của Ngọc S tại Kết luận giám định số
571/KL-KTHS ngày 05/9/2022 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng
Ngãi (BL 54-56). Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, Bị cáo Ngọc S đối
tượng Vương Thị L thay đổi lời khai phủ nhận các lời khai ban đầu. Xét thấy, đối
tượng Vương Thị L dấu hiệu đồng phạm với bị cáo S vtội “Vận chuyển trái
phép chất ma túy” quy định tại Điều 250 của Bộ luật hình sự. Do đó, Hội đồng xét
xử kiến nghị quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Quảng Ngãi, Viện
kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi khởi tố đối tượng Vương Thị L để điều
tra làm rõ, tránh bỏ lọt tội phạm.
[11] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi,
tỉnh Quảng Ngãi về tội danh, và xử lý vật chứng có căn cứ, phù hợp với nhận định
của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận. Riêng về mức hình phạt đại diện
Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo chưa đủ tính răng đe, tương xứng với hành vi
phạm tội của bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận một phần.
[12] Về án phí: Bcáo Ngọc S phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự
thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ đim i, khon 1 Điu 250, điểm s khoản 1 Điều 51, Điu 50, Điu
38 B lut hình s 2015 được sửa đổi, b sung năm 2017.
1. Tuyên bố bị cáo Ngọc S phạm tội Vận chuyển trái phép chất ma
túy”.
X pht b cáo Ngc S 3 (ba) năm ; thời hạn chấp hành hình phạt
tính từ bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 02/6/2022).
Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
2. Về xử vật chứng: Áp dụng Điều 47, 48 Bộ luật hình sự năm 2015,
được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
- Tch thu tiêu hy 0,95 gam mẫu ma túy, loại Ketamine (mẫu còn lại sau
giám định) và 1,12 gam mẫu ma túy, loại MDMA (mẫu n lại sau giám định)
cùng toàn bộ vỏ bao gói niêm phong gửi giám định được niêm phong trong cùng
một phong sô: 522/KL-KTHS (GĐ-2022), trên giáp lại hình dấu của phòng
Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi cùng chữ của: Nguyễn Ngọc
Chương, Nguyễn Văn Dũng, Phùng Đức Quang.
- 01 (một) vỏ bao thuốc lá “WHITE HORSE”.
- Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động mặt sau chữ
iphone, màu đen, bên trong điện thoại gắn 01 (một) thẻ sim Viettel. Điện thoại
được btrong túi niêm phong số PS3 2000337 ch của giám định
viên và dấu tròn của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi.
8
- Trả lại cho bị cáo: 01 (mt) thẻ n cước công dân số 051203007638, họ
tên: “LÊ NGỌC SON”. 01 (một) thẻ ATM ngân hàng Vietcombank số
9704365522355097015, mang tên “LE NGỌC SƠN”. 01 (một) thẻ ATM ngân
hàng Sacombank số 9704030635199802, mang tên “LE NGỌC SƠN”.
- Trả lại cho chị Vương Thị L 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone, màu
vàng đồng, bên trong máy điện thoại gắn thẻ sim Viettel. Điện thoại được bỏ
trong túi niêm phong mã số PS3 2000338 chữ của giám định viên dấu
tròn của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi.
(Theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 15/3/2023 giữa
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Quảng Ngãi và Chi cục Thi hành án
dân sự thành phố Quảng Ngãi)
3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm
a khoản 1 Điều 23, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-
2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Buộc bcáo Lê Ngọc S phải chịu 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí
hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào các Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn
15 ngày, kể từ ngày tuyên án thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận
được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Quảng Ngãi;
- VKSND tỉnh Quảng Ngãi;
- Sở Tư pháp tỉnh Quảng Ngãi;
- VKSND Tp. Quảng Ngãi;
- CQCSĐT Công an Tp. Quảng Ngãi;
- Cơ quan THAHS Công an Tp. Quảng Ngãi;
- Phòng NVLT Công an Tp. Quảng Ngãi;
- Chi Cục THADS Tp. Quảng Ngãi;
- Bị cáo;
- Những người tham gia tố tụng khác;
- Lưu: Hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
Đã ký
Nguyễn Chí Thương
9
10
Tải về
Bản án số 104/2023/HS-ST Bản án số 104/2023/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất