Bản án số 100/2020/HS-ST ngày 19/06/2020 của TAND TP. Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế về tội trộm cắp tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 100/2020/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 100/2020/HS-ST ngày 19/06/2020 của TAND TP. Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế về tội trộm cắp tài sản
Tội danh: 138.Tội trộm cắp tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Huế (TAND tỉnh Thừa Thiên Huế)
Số hiệu: 100/2020/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 19/06/2020
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H, TỈNH THỪA THIÊN H1

BẢN ÁN 100/2020/HS-ST NGÀY 19/06/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H1, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 89/2020/TLST-HS ngày 15 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 78/2020/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo:

Châu Văn L; Tên gọi khác: B, sinh năm 1971 tại tỉnh Thừa Thiên H1; nơi cư trú: Tổ 4, khu vực 2, phường An T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H1; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: Không Bết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Châu Văn N (Chết) và bà Châu Thị V, sinh năm 1947; gia đình có 02 anh, chị em ruột, bị cáo là con đầu; vợ: Mai Thị L, sinh năm 1975; con: Có 03 con, lớn nhất 22 tuổi, nhỏ nhất 17 tuổi.

* Quá trình nhân thân: Nhỏ ở với cha mẹ, không được học văn hóa, lớn lên không có nghề nghiệp ổ định.

- Ngày 10/02/1993, bị Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên H1 cưỡng bức lao động 02 năm về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”:

- Ngày 12/7/2007, bị Công an phường An T, thành phố H ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính 60.000 đồng về hành vi “Gây rối trật tự ở khu dân cư”:

- Ngày 15/5/2008, bị Công an phường An T, thành phố H ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính 60.000 đồng về hành vi “Gây mất trật tự tại khu dân cư”.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 11/02/2020 cho đến nay, tại Nhà tạm giữ Công an thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H1, bị cáo có mặt.

- Bị hại: Ông Phan Xuân N, sinh năm 1964; nơi cư trú: Lô 43 đường Lương Nhữ H (Khu quy hoạch Xóm H), phường An T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H1, vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Trần Ngọc S, sinh năm 1974; nơi cư trú: Tổ 6, khu vực 3, phường An T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H1, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn Bến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 02 giờ 00 phút ngày 25/12/2019, sau khi đi uống rượu, Châu Văn L đi bộ về ngang qua nhà ông Phan Xuân N, phát hiện phía sau nhà có một giàn hoa Phong lan cảnh, xung quanh được bọc bởi hàng rào lưới thép B40 nên Lộc nảy sinh ý định trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài. Lộc lén lút đột nhập vào trong rồi leo qua hàng rào lưới B40 lấy trộm 06 giò hoa Phong lan các loại. Sau khi lấy được tài sản, Lộc đem cất giấu tại khu vực lăng mộ (Cách nhà ông N khoảng 300 mét) rồi về nhà ngủ. Đến khoảng 08 giờ ngày 26/12/2019, L ra lấy đem về nhà cất giấu. Sau khi phát hiện bị mất tài sản ông Nguyên đã làm đơn trình báo Cơ quan Công an yêu cầu điều tra xử lý.

Trước đó khoảng 01 tháng Lộc còn trộm cắp 01 chậu Mai cảnh của ông Trần Ngọc S.

* Vật chứng thu giữ:

- 03 (Ba) giò hoa Phong lan (loại Dạ hạc):

- 01 (Một) giò hoa Phong lan (loại Quế lá xếp):

- 02 (Hai) giò hoa Phong lan (loại Cattleya):

- 01 (Một) chậu sứ bên trong có cây Mai cảnh, chiều cao cây là 51cm.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 14/KL-HĐĐG ngày 26/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố H kết luận: Tổng trị giá tài sản 06 giò hoa Phong lan do Châu Văn L trộm cắp của ông Phan Xuân N là 7.000.000 đồng (Bảy triệu đồng).

Tại bản kết luận định giá tài sản số 46/KL-HĐĐG ngày 17/02/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố H kết luận: Trị giá chậu Mai cảnh do Châu Văn L trộm cắp của ông Trần Ngọc S là 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng).

* Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại 06 giò hoa Phong lan cho ông Phan Xuân N, trả lại 01 chậu Mai cảnh cho ông Trần Ngọc S. Ông Phan Xuân N và ông Trần Ngọc S đã nhận lại tài sản không có yêu cầu gì thêm.

Đối với hành vi trộm cắp tài sản là một chậu Mai cảnh của ông Trần Ngọc S, do giá trị tài sản chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng, nên Công an thành phố H đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Châu Văn L là có căn cứ.

Tại bản cáo trạng số 104/CT-VKS-HS ngày 15/5/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H1 đã truy tố bị cáo Châu Văn L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H vẫn giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh, điều luật áp dụng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Châu Văn L (Tên gọi khác: B) phạm tội “Trộm cắp tài sản”:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Châu Văn L (Tên gọi khác: B) từ 01 (Một) năm đến 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt tạm giam 11/02/2020.

* Xử lý vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại 06 giò hoa Phong lan cho ông Phan Xuân N, trả lại 01 chậu Mai cảnh cho ông Trần Ngọc S. Ông Phan Xuân N, ông Trần Ngọc S đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm, nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

* Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Châu Văn L phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Châu Văn L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, xét lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị hại và các chứng cứ khác được thu thập tại hồ sơ vụ án, quá trình xét hỏi, tranh luận công khai tại phiên tòa đã làm rõ hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 02 giờ ngày 25/12/2019 tại tổ 6, khu vực 3, phường An T, thành phố H; lợi dụng đêm khuya và mất cảnh giác của chủ sở hữu, Châu Văn L đã lén lút chiếm đoạt của ông Phan Xuân N, ở 06 (Sáu) giò Phong lan cảnh có tổng trị giá 7.000.000 đồng (Bảy triệu đồng). Với hành vi nêu trên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H1 đã truy tố bị cáo Châu Văn L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 ộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét tính chất, mức độ hành vi của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo Châu Văn L là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, mà còn ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an của địa phương. Bị cáo có nhân thân xấu, đã bị Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên H1 “cưỡng bức lao động” và nhiều lần bị Công an phường An T, thành phố H xử phạm vi phạm hành chính về hành vi “Gây mất trật tự tại khu dân cư”. Lẽ ra bị cáo phải lấy đó làm bài học cho bản thân để phấn đấu trở thành người tốt có ích cho gia đình và xã hội nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội. Bởi vậy, đối với Châu Văn L cần xét xử nghiêm và cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đảm bảo tính giáo dục bị cáo, đồng thời răn đe và phòng tội phạm. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét cho bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tại cơ quan điều tra, cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H1, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H1, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

* Về xử lý vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại 06 giò hoa Phong lan cho ông Phan Xuân N, trả lại 01 chậu Mai cảnh cho ông Trần Ngọc S. Ông Phan Xuân N, ông Trần Ngọc S đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

* Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Châu Văn L (Tên gọi khác: B) phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,  

QUYẾT ĐỊNH:

1. Tuyên bố bị cáo Châu Văn L (Tên gọi khác: B) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Châu Văn L (Tên gọi khác: B) 09 (Chín) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt tạm giam 11/02/2020.

2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc bị cáo Châu Văn L (Tên gọi khác: B) phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.

Tải về
Bản án số 100/2020/HS-ST Bản án số 100/2020/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất