Bản án số 06/2024/DS-ST ngày 28/08/2024 của TAND huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 06/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 06/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 06/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 06/2024/DS-ST ngày 28/08/2024 của TAND huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Văn Quan (TAND tỉnh Lạng Sơn) |
Số hiệu: | 06/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 28/08/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Diện tích đất tranh chấp tại địa danh Đ, phố Đ I, xã Đ, huyện V có nguồn gốc của bố mẹ là ông Cam Văn T3, sinh năm 1930 (đã chết năm 2009) và bà Nông Thị N1, sinh năm 1933 (đã chết 2001) chia cho |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN VĂN QUAN
TỈNH LẠNG SƠN
Bản án số: 06/2024/DS-ST
Ngày 28-8-2024
V/v Tranh chấp quyền sử dụng đất
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN QUAN, TỈNH LẠNG SƠN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên toà: Bà Hoàng Thị Thu Hường
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Hứa Nguyễn Hoàn
Bà Đỗ Thị Gấm
- Thư ký phiên tòa: Bà Lương Thị Bích – Thẩm tra viên Toà án nhân dân
huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn
tham gia phiên tòa: Ông Nông Quang Thịnh - Kiểm sát viên.
Ngày 28 tháng 8 năm 2024 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Văn Quan,
tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 07/2024/TLST-
DS ngày 08 tháng 4 năm 2024 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất” theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2024/QĐXXST-DS ngày 30 tháng 7 năm
2024, Quyết định hoãn phiên toà số 05/2024/QĐXXST-DS ngày 21 tháng 8 năm
2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Cam Văn C, sinh năm 1969. Địa chỉ: Phố Đ I, xã Đ,
huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.
- Bị đơn: Ông Cam Văn C1, sinh năm 1965. Địa chỉ: Phố Đ II, xã Đ, huyện
V, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Phùng Thị H, sinh năm 1981. Địa chỉ: Phố Đ II, xã Đ, huyện V, tỉnh
Lạng Sơn. Có mặt
2. Bà Đặng Thị T, sinh năm 1974. Có mặt
3. Anh Cam Văn T1, sinh năm 1997. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng
mặt.
4. Chị Cam Thị V, sinh năm 1999. Vắng mặt. Người đại diện theo ủy
quyền: Ông Cam Văn C, sinh năm 1969. Có mặt
2
5. Anh Cam Văn T2, sinh năm 2004. Có mặt trong quá trình xét xử, vắng
mặt khi tuyên án.
Cùng địa chỉ: Phố Đ I, xã Đ, huyện V, tỉnh Lạng Sơn
- Người làm chứng:
1. Ông Cam Văn B, sinh năm 1962. Địa chỉ: Phố Đ I, xã Đ, huyện V, tỉnh
Lạng Sơn. Có mặt
2. Bà Cam Thị H, sinh năm 1963. Địa chỉ: Thôn K, xã N, huyện V, tỉnh
Lạng Sơn. Vắng mặt
3. Bà Cam Thị N, sinh năm 1963. Địa chỉ: Số A đường C, tổ F khối D
phường Đ, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt
4. Ông Hoàng Văn H, sinh năm 1958. Địa chỉ: Thôn P, xã Đ, huyện V, tỉnh
Lạng Sơn. Vắng mặt
5. Bà Vũ Thị H, sinh năm 1961. Địa chỉ: Thôn P, xã Đ, huyện V, tỉnh Lạng
Sơn. Vắng mặt
6. Bà Hoàng Thị C. Vắng mặt
7. Ông Cam Văn B1. Vắng mặt
8. Bà Lương Thị S. Vắng mặt
Cùng địa chỉ: Phố Đ I, xã Đ, huyện V, tỉnh Lạng Sơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện ngày 28/02/2024, đơn khởi kiện bổ sung ngày
04/4/2024, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn
Cam Văn C đồng thời là người đại diện theo uỷ quyền của chị Cam Thị V trình
bày:
Diện tích đất tranh chấp tại địa danh Đ, phố Đ I, xã Đ, huyện V có nguồn
gốc của bố mẹ là ông Cam Văn T3, sinh năm 1930 (đã chết năm 2009) và bà
Nông Thị N1, sinh năm 1933 (đã chết 2001) chia cho. Ông Cam Văn T3 và bà
Nông Thị N1 có 06 người con gồm: Cam Văn B, sinh năm 1962, Cam Thị H,
sinh năm 1963; Cam Thị N, sinh năm 1963; Cam Văn C1, sinh năm 1965; Cam
Thị C, sinh năm 1967 (nay đã chết); Cam Văn C, sinh năm 1969. Khi còn sống,
bố mẹ ông Cam Văn C có tạo lập được các tài sản gồm đất ở, đất ruộng và vườn,
đất rừng, không biết chính xác diện tích cụ thể như thế nào. Đất ở và đất ruộng,
vườn đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSD đất) mang tên
ông Cam Văn T3, đất rừng chưa được cấp GCNQSD đất. Khi còn sống ông Cam
Văn T3 và bà Nông Thị N1 đã chia đất cho các con, chỉ chia cho các con trai,
không chia cho con gái, việc phân chia thực hiện khi các con ra ở riêng, chỉ phân
chia bằng miệng, không có giấy tờ gì. Riêng rừng hồi thì bố mẹ có nói ai chăm
sóc bố mẹ thì được hưởng, vì vậy bố mẹ chỉ chia rừng hồi cho Cam Văn C1,
không chia cho các con khác.
Về đất ruộng, ông Cam Văn T3 và bà Nông Thị N1 có 08 thửa ruộng trong
3
đó có 07 thửa đã được cấp GCNQSD đất cho hộ ông Cam Văn T3 năm 1994 (01
thửa ở Nà L, 03 thửa ở Đ, 04 thửa ở L). Khi còn sống ông Cam Văn T3 đã phân
chia ruộng cho các con, trong đó chia cho Cam Văn B 03 thửa, Cam Văn C1 03
thửa, Cam Văn C 02 thửa. Sau khi được chia đất, năm 2007 ông Cam Văn C đã
làm thủ tục đăng ký kê khai và được cấp GCNQSD đất số AP559808 ngày
19/12/2008 cho hộ ông Cam Văn C và bà Đặng Thị T, thành viên hộ gia đình
gồm có Cam Văn C, Đặng Thị T, Cam Văn T1, Cam Thị V, Cam Văn T2. Các
thửa đất ruộng này 3 anh em sau khi được chia đã canh tác ổn định từ trước đến
nay không ai tranh chấp. Đến năm 2023 ông Cam Văn C1 về làng Đ, phố Đ I làm
nhà thì tự ý ngăn lấy một nửa thửa ruộng số 45 tờ bản đồ số 09 đã được bố mẹ
chia cho Cam Văn C và cấy lúa, ngăn lấy một phần rừng vầu để sử dụng và cho
rằng đây là ruộng, rừng dưỡng lão của bố để lại. Về phần rừng vầu, sau khi gửi
đơn khởi kiện đến Toà án, hai anh em đã tự chia nhau nên nguyên đơn thay đổi
yêu cầu khởi kiện, không yêu cầu Toà án giải quyết về rừng vầu.
Ngày 14/5/2024, Tòa án nhân dân huyện Văn Quan đã tiến hành xem xét
thẩm định tại chỗ, xác định diện tích đất tranh chấp là 299,1m
2
thuộc một phần
thửa số 45 tờ bản đồ địa chính số 9 xã V cũ (nay là xã Đ), huyện V, đã được
UBND huyện V cấp GCNQSD đất số AP559808 ngày 19/12/2008 cho hộ ông
Cam Văn C và bà Đặng Thị T. Tài sản trên đất chỉ có cây lúa ông Cam Văn C1
và bà Phùng Thị H mới trồng, nguyên đơn bị đơn đều thống nhất để cho gia đình
bị đơn thu hoạch lúa đã trồng, không yêu cầu định giá và không yêu cầu giải
quyết về cây lúa. Kết quả giám định tư pháp ngày 07/7/2024 của Giám định viên
Sở Tài nguyên và môi trường xác định: Toàn bộ diện tích đất tranh chấp 299,1m
2
thuộc một phần thửa số 45 tờ bản đồ số 9 năm 2008 xã V cũ nêu trên trùng với
một phần thửa số 322 tờ bản đồ giải thửa số 8 năm 1988 xã V cũ, huyện V, chưa
được ai đăng ký, kê khai sử dụng đất. Thửa 223 tờ bản đồ giải thửa số 8 năm
1988 xã V cũ đứng tên chủ sử dụng đất Cam Văn T3 trùng với thửa 129 tờ bản
đồ địa chính số 11 xã V năm 2008, địa danh N, thôn P, xã Đ, đứng tên chủ sử
dụng đất Hoàng Văn H. Phía nguyên đơn nhất trí với kết quả xem xét thẩm định
tại chỗ, định giá tài sản; nhất trí kết quả giám định tư pháp, yêu cầu Toà án giải
quyết cho hộ ông Cam Văn C bà Đặng Thị T được quản lý sử dụng diện tích đất
ruộng 299,1m
2
thuộc một phần thửa số 45 tờ bản đồ địa chính số 9 xã V cũ (nay
là xã Đ), huyện V.
Trong các bản tự khai, biên bản lấy lời khai tại Tòa án và tại phiên toà,
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Đặng Thị T, Cam Văn T2 thống nhất về
nguồn gốc, quá trình canh tác diện tích đất tranh chấp và các yêu cầu như nguyên
đơn đã trình bày. Cam Văn T1 trình bày đất ruộng do ông bà để lại thì do bố mẹ
tự quyết định, Cam Văn T1 không có ý kiến gì.
Bị đơn Cam Văn C1 trình bày: Ông Cam Văn T3, bà Nông Thị N1 khi còn
sống có 08 thửa ruộng ông bà chia cho, tuy nhiên trong GCNQSD đất cấp cho hộ
ông Cam Văn T3 năm 1994 chỉ có 07 thửa là không đúng, thửa 223 tờ bản đồ giải
thửa số 8 không phải thửa đất của ông Cam Văn T3 mà là của gia đình ông
Hoàng Văn H ở thôn P, xã Đ. Khi còn sống bố mẹ đã chia đất cho các con, chia
bằng miệng, không có giấy tờ gì, chỉ chia cho con trai, không chia cho con gái.
4
Anh cả Cam Văn B được chia 03 thửa, hiện nay canh tác 02 thửa trồng lúa và 01
thửa anh Cam Văn B đã làm nhà, gồm có thửa 334 tờ bản đồ số 8, thửa 486 tờ
bản đồ số 10 và 01 thửa ruộng nữa ở Nà L. Khoảng năm 1989 bố cho Cam Văn
C1 02 thửa gồm thửa 333 và thửa 487; Cam Văn C ở với bố mẹ nên canh tác 03
thửa là 488, 489 và thửa ruộng sau nhà hiện nay đang tranh chấp, năm 1995 bố
mẹ chia thửa 489 cho Cam Văn C1 sử dụng. Tháng 02 năm 2007 bố gọi 03 anh
em lên rừng chia lại ruộng, bố nói anh Cam Văn B chia cho Cam Văn C1 một
nửa thửa ruộng Nà L; thửa ruộng sau nhà (thửa 45 hiện nay) là ruộng dưỡng lão
của bố mẹ, Cam Văn C để cho Cam Văn C1 một nửa bé hơn, Cam Văn C được
một nửa to hơn do Cam Văn C1 chăm sóc bố mẹ, tuy nhiên, Cam Văn C1 không
lấy phần ruộng của Cam Văn B. Sau khi được bố chia 03 thửa 333, 487 và 489,
Cam Văn C1 canh tác trồng lúa nhưng bị hạn hán nên chuyển sang trồng ngô,
năm 2009 bán đi thửa 487 để trả nợ; thửa 333 làm chuồng gà một nửa, một nửa
thì Cam Văn C trồng ngô từ năm 2016; thửa 489 một phần để đất mộ, một phần
cho em họ tên là Cam Thị N2 mượn trồng ngô. Đối với phần ruộng dưỡng lão
của bố mẹ hiện đang tranh chấp, do Cam Văn C1 ở bên phố Đ II buôn bán nên để
cho Cam Văn C canh tác cả thửa, định khi nào cần thì lấy lại. Năm 2023 Cam
Văn C1 về làng Đ làm nhà ở và yêu cầu Cam Văn C trả lại một nửa thửa ruộng
dưỡng lão của bố mẹ nhưng Cam Văn C không nhất trí nên mới xảy ra tranh
chấp. Đối với rừng hồi do Cam Văn C1 khai phá, không phải rừng bố mẹ để lại.
Trong các bản tự khai, biên bản lấy lời khai tại Tòa án và tại phiên toà,
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Phùng Thị H thống nhất về nguồn gốc, quá
trình canh tác diện tích đất tranh chấp và các yêu cầu như bị đơn đã trình bày.
Lời khai những người làm chứng:
Ông Cam Văn B trình bày: Ông Cam Văn T3 khi còn sống có 08 thửa
ruộng được ông cha để lại. Trong GCNQSD đất năm 1994 có thửa 223 tờ bản đồ
số 8 không phải thửa đất của ông Cam Văn T3 mà là của gia đình ông Hoàng
Văn H ở thôn P, xã Đ. Ông Cam Văn B được bố chia 03 thửa ruộng, hiện nay
canh tác 02 thửa trồng lúa và 01 thửa đã làm nhà, gồm có thửa 334 tờ bản đồ số 8
diện tích 230m
2
(hiện nay làm nhà), thửa 486 tờ bản đồ số 10 diện tích 428m
2
và
01 thửa ruộng nữa ở Nà L diện tích hơn 1 sào, được chia từ năm 1986 khi ông
Cam Văn B ra ở riêng, các thửa này đều đã được cấp GCNQSD đất cho hộ Cam
Văn B. Khi Cam Văn C1 lấy vợ thì bố mẹ chia cho 02 thửa ruộng gồm thửa 487
(hiện nay đã bán) và thửa 333, sau này thì bố lại chia thêm cho Cam Văn C1 thửa
489. Ông Cam Văn T3 khi còn sống có nói thửa sau nhà hơn 2 sào là ruộng
dưỡng lão, chính là thửa 45 đang tranh chấp hiện nay, sau này ai chăm lo bố mẹ
và chăm lo các chị em gái thì được hưởng. Bố chia ruộng được 02 năm sau thì bố
bị cảm chết. Thửa ruộng sau nhà Cam Văn C vẫn canh tác từ trước đến nay vì
Cam Văn C1 ở phố, bận buôn bán không canh tác được. Đối với rừng hồi có 01
thửa do bố mẹ khai phá đã chia cho Cam Văn C1, không chia cho các con khác.
Năm 2007 bố có chia lại ruộng hay không Cam Văn B không biết, tuy nhiên bố
có nói phần ruộng Cam Văn B được chia trước, các em không được so bì với anh,
không có việc bố chia một nửa thửa ruộng Nà L của Cam Văn B cho Cam Văn
C1.
5
Bà Cam Thị H trình bày: Bố mẹ bà Cam Thị H là Cam Văn T3 và Nông
Thị N1 trước đây sống ở làng Đ, xã V (nay phố Đ I, xã Đ). Khi còn sống, bố mẹ
tạo lập được các tài sản gồm ruộng, rừng và 01 thửa đất ở. Khi còn sống bố mẹ
đã phân chia đất đai cho các con, chỉ chia cho con trai, không chia cho con gái;
đất ở, đất ruộng, vườn đã chia hết cho anh Cam Văn B và Cam Văn C1, Cam Văn
C, chia đều nhau, không biết ai được thửa nào, bao nhiêu diện tích. Ở Đ có một
thửa to khoảng hơn 1 sào ở ngay sau nhà của bố mẹ hiện nay đang tranh chấp, khi
còn sống bố mẹ chia cho Cam Văn C và Cam Văn C1 mỗi người một nửa, Cam
Văn C1 không làm được nên để cho Cam Văn C canh tác, Cam Văn C tự ý đi cấp
GCNQSD đất lúc nào các anh chị em đều không biết.
Bà Cam Thị N trình bày: Bà Cam Thị N là con đẻ của ông Cam Văn T3 và
bà Nông Thị N1. Khi còn sống, bố mẹ đã phân chia đất đai cho các con, chỉ chia
cho con trai, không chia cho con gái nên bà Cam Thị N không biết cụ thể việc
phân chia thế nào. Về đất ruộng bên Phố Đ II bố mẹ có 04 thửa, chia cho Cam
Văn B 01 thửa to, chia cho Cam Văn C1 02 thửa bé, Cam Văn C 01 thửa. Bên
làng Đ có 03 thửa, 01 thửa anh Cam Văn B hiện nay đã làm nhà, 01 thửa gần suối
thì đã chia cho Cam Văn C1 một nửa, Cam Văn C một nửa, 01 thửa to ngay sau
nhà hiện nay đang tranh chấp, ông Cam Văn T3 lúc còn sống nói sau này ai chôn
cất ông bà và chăm sóc các chị gái thì được một nửa, còn một nửa thì cho Cam
Văn C, không biết sau này bố mẹ có phân chia lại hay không. Trước đây Cam
Văn C1 ở trên phố Đ II không làm được ruộng nên cho Cam Văn C làm tạm toàn
bộ ruộng ở Đ, sau này khi Cam Văn C1 về Đ sinh sống muốn lấy lại ruộng nhưng
Cam Văn C không đồng ý.
Ông Hoàng Văn H, bà Vũ Thị H thống nhất trình bày: Thửa đất số 223 tờ
bản đồ giải thửa số 08 xã V cũ là đất trồng lúa, địa danh N, thôn P, xã Đ, nay là
thửa 129 tờ bản đồ địa chính số 11 xã Đ là ruộng của gia đình ông Hoàng Văn H
quản lý từ trước đến nay, không liên quan gì đến gia đình ông Cam Văn T3.
Bà Hoàng Thị C trình bày: Bà Hoàng Thị C sống cùng phố với ông Cam
Văn C, Cam Văn C1. Theo phong tục tập quán địa phương không có quy ước,
hương ước về ruộng dưỡng lão, tuỳ từng gia đình để lại ruộng dưỡng lão nhưng
đa phần là không có ruộng dưỡng lão.
Ông Cam Văn B1 trình bày: Từ năm 1996 – 2006 ông Cam Văn B1 là
Trưởng thôn Đ, ông Cam Văn T3 là con bác, ông Cam Văn B1 là con chú. Phong
tục tập quán địa phương không có quy định về ruộng dưỡng lão, từ thời các cụ có
để lại ruộng dưỡng lão, từ đời bố ông Cam Văn B1 thì không để lại ruộng dưỡng
lão, anh em trong họ cũng không để lại ruộng dưỡng lão. Ông Cam Văn T3 chia
ruộng cho các con thế nào, có để lại ruộng dưỡng lão hay không thì ông Cam Văn
B1 không biết.
Bà Lương Thị S trình bày: Chồng bà Lương Thị S và ông Cam Văn T3 là
anh em con chú, con bác. Phong tục tập quán địa phương không quy định về
ruộng dưỡng lão, tuy nhiên tuỳ từng gia đình có nhiều ruộng đất thì cũng có để
lại ruộng dưỡng lão. Bà Lương Thị S không biết ông Cam Văn T3 chia đất cho
các con như thế nào, không biết có để lại ruộng dưỡng lão hay không nhưng nghe
6
người trong xóm nói thửa đất đang tranh chấp được ông Cam Văn T3 chia cho
Cam Văn C.
UBND huyện V tại công văn số 1084/UBND-TNMT ngày 29/5/2024 có ý
kiến: Ông Cam Văn T3 được UBND huyện V cấp GCNQSD đất số E0497033
ngày 10/12/1994 đối với 07 thửa đất, tổng diện tích 2.324m
2
bao gồm thửa 333,
334, 223 tờ bản đồ giải thửa số 8 và thửa 486, 487, 488, 489 tờ bản đồ giải thửa
số 10 xã V cũ (nay là xã Đ). Sau khi đo đạc lại bản đồ địa chính các thửa đất trên
được đo đạc lại thành 08 thửa gồm thửa 104, 105, 97 tờ bản đồ địa chính số 09,
thửa 129 tờ bản đồ địa chính số 11, thửa 366, 380, 381, 401 tờ bản đồ địa chính
số 13; trong đó thửa 104, 105 tờ bản đồ số 09 và thửa 380, 401 tờ bản đồ số 13 do
Cam Văn C1 đăng ký quyền sử dụng đất, chưa được cấp GCNQSD đất, thửa 97
tờ bản đồ số 09 và thửa 366 tờ bản đồ 13 đã được cấp GCNQSD đất cho hộ ông
Cam Văn B, bà Hoàng Thị S ngày 19/12/2008, thửa 381 đã được cấp GCNQSD
đất ngày 19/12/2008 cho hộ ông Cam Văn C, bà Đặng Thị T, thửa 129 tờ bản đồ
11 đã được cấp GCNQSD đất ngày 19/12/2008 cho hộ ông Hoàng Văn H, bà Vũ
Thị H. Diện tích đang tranh chấp hiện nay thuộc thửa 45 tờ bản đồ địa chính số
09 (đã được cấp GCNQSD đất cho hộ ông Cam Văn C, bà Đặng Thị T ngày
19/12/2008) qua đối chiếu tương ứng với thửa 322 tờ bản đồ giải thửa số 08 xã V
cũ năm 1988 (chưa được ai đăng ký quyền sử dụng đất). Năm 2008 hộ ông Cam
Văn C, bà Đặng Thị T có đơn xin cấp lại, cấp đối GCNQSD đất sau đo đạc bản
đồ địa chính, từ thửa 223 tờ bản đồ giải thửa số 8 và thửa 488 tờ bản đồ giải thửa
số 10 sang thửa 43, 45 tờ bản đồ địa chính số 09 và thửa 381 tờ bản đồ địa chính
số 13. Hồ sơ cấp đổi GCNQSD đất có văn bản tặng cho của ông Cam Văn T3,
tuy nhiên không có xác nhận của chính quyền địa phương, thửa 223 trước đây
cấp trùng cho hộ ông Cam Văn T3 và hộ ông Hoàng Văn H, sau khi đo đạc lại
bản đồ địa chính thì ông Hoàng Văn H đã được cấp đổi GCNQSD đất từ thửa 223
tờ bản đồ giải thửa số 08 sang thửa 129 tờ bản đồ địa chính số 11 đúng quy định,
thửa 43 và 45 tờ bản đồ địa chính số 09 có nguồn gốc đo đạc lại từ thửa 322 tờ
bản đồ giải thửa số 08 chưa được ai đăng ký quyền sử dụng đất. Vì vậy, việc cấp
GCNQSD đất số AP559808 ngày 19/12/2008 cho hộ ông Cam Văn C, bà Đặng
Thị T không đảm bảo trình tự thủ tục theo quy định của Luật đất đai.
UBND xã Đ tại công văn số 81/UBND ngày 06/6/2024 có ý kiến: Ông
Cam Văn T3 khi còn sống được UBND huyện V cấp GCNQSD đất số E0497033
ngày 10/12/1994 đối với 07 thửa đất ruộng, tổng diện tích là 2324m
2
, UBND xã
chỉ biết đương sự trình bày có phân chia đất đai khi bố mẹ còn sống, sau khi bố
mẹ chết thì các anh em không phân chia lại đất đai lần nào, không chuyển quyền
sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân nào. Tại công văn số 113/UBND ngày
22/7/2023 có ý kiến: Thời kỳ 2007 – 2009 trên địa bàn xã không có hương ước
quy định về ruộng dưỡng lão, tuỳ từng gia đình có để lại ruộng dưỡng lão, ruộng
dưỡng lão để cho người nuôi dưỡng, chăm sóc và lo hậu sự cho bố mẹ quản lý,
canh tác.
Ngày 24/7/2024, Toà án nhân dân huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn đã mở
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải vụ án
nêu trên. Tại phiên hòa giải, các đương sự không thống nhất thỏa thuận được với
7
nhau việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án. Tại phiên toà, các bên đương sự giữ
nguyên các ý kiến trình bày và yêu cầu như trên.
Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Quan,
tỉnh Lạng Sơn tại phiên tòa: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng, từ khi thụ lý vụ
án đến trước khi xét xử, Thẩm phán thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự về việc lập hồ sơ vụ án, xác định quan hệ tranh chấp, tư cách tham
gia tố tụng, giải thích trợ giúp lý cho đương sự, quyết định đưa vụ án ra xét xử và
chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu đúng quy định. Tại phiên tòa, thành
phần Hội đồng xét xử đảm bảo đúng quy định, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân,
Thư ký Tòa án thực hiện đúng quy định của pháp luật. Trong quá trình giải quyết
vụ án cũng như tại phiên tòa các đương sự và những người tham gia tố tụng khác
đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Diện tích đất tranh chấp là 299,1m
2
thuộc
một phần thửa đất 45 tờ bản đồ địa chính số 09 xã Đ, huyện V. Qua nghiên cứu
các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa hôm nay thấy
rằng, diện tích đất tranh chấp có nguồn gốc của ông Cam Văn T3 (đã chết năm
2009) và bà Nông Thị N1 (đã chết năm 2001). Khi còn sống ông Cam Văn T3 và
bà Nông Thị N1 thực tế quản lý, canh tác 08 thửa ruộng, 06 thửa nằm trong
GCNQSD đất số E0497033 được UBND huyện V cấp ngày 10/12/1994 cho ông
Cam Văn T3, 02 thửa chưa được cấp GCNQSD đất. Các bên đương sự đều thừa
nhận khi còn sống ông Cam Văn T3 đã chia đất cho các con. Đối với thửa đất
tranh chấp số 45 tờ bản đồ số 09 có tổng diện tích là 609m
2
và một phần đất được
tách ra làm ao thửa 43 diện tích 34m
2
qua giám định tư pháp trùng với thửa 322
có nguồn gốc của ông Cam Văn T3 nhưng chưa được đăng ký quyền sử dụng đất.
Việc chia đất cho Cam Văn B, Cam Văn C, Cam Văn C1 đã được chia đều nhau,
đối với Cam Văn C đã quản lý, sử dụng diện tích đất tranh chấp trước khi được
chia liên tục cho đến khi được chia và được cấp GCNQSD đất năm 2008, đến
năm 2023 mới phát sinh tranh chấp với ông Cam Văn C1. Như vậy phía nguyên
đơn có căn cứ chứng minh được nguồn gốc, quá trình quản lý, canh tác trên đất
tranh chấp nên có căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn,
buộc ông Cam Văn C1 và bà Phùng Thị H phải trả lại diện tích đất tranh chấp
299,1m
2
thuộc một phần thửa đất 45 tờ bản đồ địa chính số 09 xã Đ, huyện V cho
hộ ông Cam Văn C, bà Đặng Thị T canh tác. Về chi phí tố tụng, ghi nhận sự tự
nguyện của nguyên đơn chịu ½ chi phí tố tụng, nguyên đơn phải chịu 7.266.000đ,
bị đơn phải chịu 7.266.000đ. Về án phí, buộc bị đơn phải chịu 300.000 đồng tiền
án phí dân sự sơ thẩm để sung ngân sách Nhà nước.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại
diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[2] Quan hệ tranh chấp trong vụ án là "Tranh chấp quyền sử dụng đất"
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Văn Quan, tỉnh Lạng
8
Sơn theo quy định tại khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1
Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về thủ tục tố tụng: Toà án đã triệu tập hợp lệ lần hai, tại phiên toà vắng
mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Cam Văn T1 đã có đơn xin xét xử
vắng mặt, Cam Thị V vắng mặt nhưng có người đại diện tham gia phiên toà, vắng
mặt người làm chứng nhưng đã có lời khai đầy đủ trong hồ sơ vụ án. Theo quy
định tại khoản 2 Điều 227, khoản 2 Điều 229 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến
hành xét xử vắng mặt đương sự và những người làm chứng nêu trên. Qua xem
xét lời khai ông Hoàng Văn K là Trưởng thôn P giai đoạn 2007-2009, không biết
gì về diện tích đất tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xác định là người làm
chứng.
[4] Về diện tích đất tranh chấp và các tài sản trên đất tranh chấp, các bên
đương sự đều nhất trí với kết quả xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản ngày
14/5/2024 và kết quả đo vẽ của cơ quan chuyên môn, kết quả giám định tư pháp,
không có khiếu nại, kiến nghị gì.
[5] Về nguồn gốc đất tranh chấp, phía nguyên đơn, bị đơn đều thống nhất
trình bày nguồn gốc đất do bố mẹ là ông Cam Văn T3, sinh năm 1930 (đã chết
năm 2009) và bà Nông Thị N1, sinh năm 1933 (đã chết 2001) chia cho các con
khi bố mẹ còn sống, chỉ chia cho con trai, không chia cho con gái, việc chia đất
thực hiện khi các con lập gia đình riêng, chia bằng miệng, không lập văn bản
phân chia. Ông Cam Văn T3 được Nhà nước cấp GCNQSD đất số E0497033, số
vào sổ 00303/QSDĐ ngày 10/12/1994 đối với 07 thửa đất ruộng bao gồm thửa
đất số 333 diện tích 310m
2
, thửa đất số 334 diện tích 230m
2
, thửa đất số 223 diện
tích 340,0m
2
đều thuộc tờ bản đồ giải thửa số 08; thửa đất số 486 diện tích
428m
2
, thửa đất số 487 diện tích 340m
2
, thửa đất số 488 diện tích 356m
2
, thửa đất
số 489 diện tích 320m
2
đều thuộc tờ bản đồ giải thửa số 10 xã V cũ (nay là xã Đ),
huyện V. Tuy nhiên thửa đất số 223 diện tích 340,0m
2
tờ bản đồ giải thửa số 08
được cấp trùng cho hộ ông Cam Văn T3 và ông Hoàng Văn H, thực tế là thửa đất
của gia đình ông Hoàng Văn H, bà Vũ Thị H tại thôn P, xã Đ, huyện V, gia đình
ông Cam Văn T3 không quản lý, sử dụng thửa đất này.
[6] Năm 2007 sau khi đo đạc bản đồ địa chính, thửa đất số 333 tương ứng
là thửa đất số 104 diện tích 219,0m
2
và thửa đất số 105 diện tích 147,0m
2
, cùng
thuộc tờ bản đồ địa chính số 9; thửa đất số 487 tương ứng là thửa 380 diện tích
312m
2
, thửa đất số 489 tương ứng là 401 diện tích 293m
2
cùng thuộc tờ bản đồ
địa chính số 13, đã được ông Cam Văn C1 đăng ký quyền sử dụng đất nhưng
chưa được cấp GCNQSD đất. Thửa đất số 334 tương ứng là thửa đất số 97 diện
tích 234m
2
tờ bản đồ số 09, thửa đất số 486 tương ứng là thửa 366 diện tích
434m
2
tờ bản đồ 13 đã được cấp GCNQSD đất số AP 559800 ngày 19/12/2008
cho hộ ông Cam Văn B và bà Hoàng Thị S. Thửa đất số 488 tương ứng là thửa
381 diện tích 351m
2
tờ bản đồ số 13 đã được UBND huyện V cấp GCNQSD đất
số AP559808 ngày 19/12/2008 cho hộ ông Cam Văn C và bà Đặng Thị T. Thửa
đất số 223 tương ứng là thửa đất số 129 diện tích 388m
2
tờ bản đồ địa chính số 11
đã được cấp GCNQSD đất số AP557367 ngày 19/12/2008 cho hộ ông Hoàng
Văn H và bà Vũ Thị H.
9
[7] Kết quả xem xét thẩm định tại chỗ xác định diện tích đất tranh chấp là
299,1m
2
thuộc một phần thửa số 45 (diện tích 609m
2
) tờ bản đồ số 9 xã Đ, huyện
V. Kết quả giám định tư pháp ngày 07/7/2024 xác định diện tích đất tranh chấp
299,1m
2
thuộc một phần thửa số 45 tờ bản đồ địa chính số 09 năm 2008 trùng với
một phần thửa đất số 322 diện tích 540m
2
tờ bản đồ giải thửa số 08 năm 1988 xã
V cũ (nay là xã Đ) chưa được hộ gia đình, cá nhân nào đăng ký, kê khai sử dụng
đất. Các đương sự đều thừa nhận thửa đất số 45 diện tích 609m
2
tờ bản đồ số 09
có nguồn gốc của ông Cam Văn T3 và bà Nông Thị N1, ngoài ra ông Cam Văn
T3 còn có 01 thửa đất đã được chia cho ông Cam Văn B nhưng không nằm trong
GCNQSD đất số E0497033 ngày 10/12/1994.
[8] Như vậy có cơ sở để khẳng định, ông Cam Văn T3 và bà Nông Thị N1
khi còn sống đã thực tế quản lý 08 thửa đất ruộng trong đó có 06 thửa đất đã
được cấp GCNQSD đất gồm thửa số 333, 334 thuộc tờ bản đồ giải thửa số 08,
thửa số 486, 487, 488, 489 thuộc tờ bản đồ giải thửa số 10 xã V cũ, 02 thửa đất
chưa được cấp GCNQSD đất. Các đương sự đều thống nhất trình bày bố mẹ khi
còn sống đã phân chia đất cho các con, trong đó ông Cam Văn B được chia 03
thửa, hiện nay là thửa 97 diện tích 234m
2
, thửa 59 diện tích 421m
2
cùng tờ bản đồ
số 09, thửa 366 diện tích 435m
2
thuộc tờ bản đồ số 13, tổng diện tích là 1090m
2
;
ông Cam Văn C1 được chia 03 thửa, sau đo đạc lại là 04 thửa gồm thửa số 104
diện tích 219m
2
, thửa số 105 diện tích 147m
2
cùng tờ bản đồ số 09, thửa 380 diện
tích 312m
2
, thửa 401 diện tích 293m
2
cùng tờ bản đồ số 13, tổng diện tích là
971m
2
; ông Cam Văn C được chia 01 thửa 381 diện tích 351m
2
thuộc tờ bản đồ
số 13 và hiện đang quản lý thửa 43 diện tích 34m
2
, thửa 45 diện tích 609m
2
đang
tranh chấp. Nguyên đơn cho rằng được bố mẹ chia 02 thửa ruộng, sau đo đạc tách
thành 03 thửa gồm thửa 43, 45 tờ bản đồ số 09 và thửa 381 tờ bản đồ 13 nêu trên,
tổng diện tích là 994m
2
.
[9] Bị đơn cho rằng thửa đất số 45 diện tích 609m
2
là ruộng dưỡng lão bố
mẹ để lại, Cam Văn C1 là người lo hậu sự cho bố mẹ và công việc bên gia đình
các chị em gái nên được hưởng một nửa diện tích nhỏ hơn của thửa 45 này, tương
ứng 299,1m
2
. Lời khai của bị đơn Cam Văn C1 về phần ruộng dưỡng lão phù hợp
với lời khai của các anh chị em ruột gồm Cam Văn B, Cam Thị H, Cam Thị N
nhưng không được nguyên đơn Cam Văn C thừa nhận. Ngoài lời khai của ông
Cam Văn C1, Cam Văn B, bà Cam Thị H, Cam Thị N thì không có tài liệu chứng
cứ nào thể hiện việc ông Cam Văn T3 có để lại ruộng dưỡng lão. Ông Cam Văn
C1 cũng cho rằng bố mẹ có chia cho Cam Văn C1 một phần thửa ruộng của Cam
Văn B nhưng Cam Văn C1 không lấy mà để cho ông Cam Văn B canh tác, ông
Cam Văn B không thừa nhận việc này mà cho rằng toàn bộ thửa 45 đang tranh
chấp giữa Cam Văn C và Cam Văn C1 là ruộng dưỡng lão. Toà án nhân dân
huyện Văn Quan đã tiến hành xác minh tại địa phương và lấy lời khai những
người làm chứng là những người cao tuổi sống ở khu vực xã Đ, huyện V. Lời
khai những người làm chứng khẳng định việc để lại ruộng dưỡng lão không phải
là phong tục tập quán địa phương mà do tuỳ từng gia đình, không biết ông Cam
Văn T3 có để lại ruộng dưỡng lão hay không.
10
[10] Các đương sự trình bày bố mẹ chia đất sau khi ra ở riêng và từng
người đã quản lý, canh tác riêng phần ruộng được bố mẹ chia. Năm 2007 khi nhà
nước đo đạc lại bản đồ địa chính, ông Cam Văn B và Cam Văn C đều đã làm thủ
tục kê khai cấp GCNQSD đất và cùng được UBND huyện V cấp GCNQSD đất
ngày 19/12/2008, riêng Cam Văn C1 có đăng ký sử dụng đất các thửa 104, 105,
380, 401 được bố mẹ chia nhưng chưa kê khai để cấp GCNQSD đất. Nguyên
đơn, bị đơn và các anh chị em ruột đều thừa nhận từ trước đến nay ông Cam Văn
C vẫn quản lý, canh tác toàn bộ thửa ruộng số 45 đang tranh chấp, năm 2023 thì
ông Cam Văn C1 mới ngăn một nửa thửa ruộng để canh tác. Bị đơn Cam Văn C1
trình bày thửa 45 là ruộng dưỡng lão bố mẹ chia cho nhưng do Cam Văn C1 sinh
sống và buôn bán ở phố Đ II, không có điều kiện canh tác nên mới để cho Cam
Văn C tạm canh tác, năm 2023 mới đòi lại thì Cam Văn C không đồng ý.
[11] Hội đồng xét xử thấy rằng, các đương sự đều thống nhất trình bày ông
Cam Văn T3 và bà Nông Thị N1 đã chia đất cho các con khi còn sống, chỉ chia
cho con trai, không chia cho con gái. Diện tích đất ruộng ông Cam Văn B được
chia là 1090m
2
, ông Cam Văn C1 được chia là 971m
2
; ông Cam Văn C cho rằng
được chia 994m
2
bao gồm cả phần đất đang tranh chấp. Như vậy, phần đất ruộng
03 anh em được chia là tương đương nhau. Nếu cho rằng diện tích 299,1m
2
đang
tranh chấp là ruộng dưỡng lão được chia cho Cam Văn C1 thì Cam Văn B được
chia 1090m
2
, Cam Văn C1 được chia 971m
2
+ 299,1m
2
= 1270,1m
2
; Cam Văn C
được chia 994m
2
- 299,1m
2
= 694,9m
2
. Việc chia đất như vậy không phù hợp với
tập quán địa phương. Thực tế, mặc dù khi bố mẹ chia đất không có giấy tờ gì
nhưng 03 anh em đều tự quản lý, canh tác phần đất mình được chia, ông Cam
Văn B và Cam Văn C đều đã được cấp GCNQSD đất, ông Cam Văn C1 đã đăng
ký sử dụng đất nhưng chưa kê khai để cấp GCNQSD đất. Toàn bộ thửa đất số 45
diện tích 609m
2
từ trước đến nay đều do gia đình ông Cam Văn C quản lý, canh
tác, khi còn sống ông Cam Văn T3, bà Nông Thị N1 không có ý kiến gì, vợ
chồng Cam Văn C1 cũng không có ý kiến gì. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy rằng
thửa đất số 45 diện tích 609m
2
thuộc tờ bản đồ số 09 được bố mẹ chia cho Cam
Văn C là có căn cứ nên chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
[12] Về trình tự thủ tục cấp GCNQSD đất số AP559808, số vào sổ H01251
ngày 19/12/2008 cho hộ ông Cam Văn C và bà Đặng Thị T, mặc dù UBND
huyện V khẳng định trình tự thủ tục cấp GCNQSD đất chưa đảm bảo theo quy
định của Luật đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành. Các đương sự đều thừa
nhận Giấy tặng cho đất mang tên Cam Văn T3 trong hồ sơ cấp GCNQSD đất số
AP559808 cho ông Cam Văn C không phải chữ ký của ông Cam Văn T3. Tuy
nhiên, thửa đất được cấp đúng đối tượng, đúng ranh giới, đúng hiện trạng sử
dụng đất nên không cần thiết phải huỷ GCNQSD đất để cấp lại, tránh gây phiền
hà cho cơ quan Nhà nước và nhân dân.
[13] Đối với tài sản trên đất là cây lúa bị đơn Cam Văn C1 và bà Phùng
Thị H đã trồng, khi xem xét thẩm định tại chỗ ngày 14/5/2024 các đương sự đều
thống nhất để cho gia đình ông Cam Văn C1 thu hoạch khi đến mùa vụ, không
yêu cầu Toà án giải quyết, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét. Đây là cây
ngắn ngày, thu hoạch theo mùa vụ, dự kiến thu hoạch trong tháng 9 – 10 năm
11
2024 nên buộc ông Cam Văn C1, bà Phùng Thị H phải trả lại đất cho hộ ông Cam
Văn C, bà Đặng Thị T sau khi đã thu hoạch xong các cây lúa đang trồng trên đất
tranh chấp hiện nay.
[14] Về chi phí tố tụng tổng cộng là 14.532.000 đồng, bao gồm chi phí
trích đo thửa đất tranh chấp 8.132.000 đồng, chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và
định giá tài sản 4.600.000 đồng, chi phí giám định bản đồ 1.800.000 đồng.
Nguyên đơn Cam Văn C đã nộp tạm ứng toàn bộ số tiền chi phí tố tụng nêu trên.
Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu toàn
bộ chi phí tố tụng. Tuy nhiên tại phiên toà hôm nay, nguyên đơn Cam Văn C tự
nguyện chịu một nửa chi phí tố tụng là 7.266.000 đồng, xác nhận ông Cam Văn C
đã nộp đủ số tiền nêu trên, bị đơn Cam Văn C1 phải chịu 7.266.000 đồng chi phí
tố tụng và có nghĩa vụ hoàn trả số tiền nêu trên cho ông Cam Văn C.
[15] Về ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn
Quan, tỉnh Lạng Sơn tại phiên tòa có căn cứ và phù hợp với các nhận định nêu
trên nên Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ.
[16] Về án phí, do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên
bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 147, điểm
a khoản 1 Điều 24, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14.
[17] Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271,
273 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 9 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39;
khoản 1 Điều 147; các Điều 157, 158, 161, 162, 165, 166; khoản 2 Điều 228;
khoản 2 Điều 229; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Căn cứ các Điều 158, 163, 164, 166, 357, 468 Bộ luật Dân sự;
Căn cứ các Điều 49, 50, 52, 105, 106, 107 Luật đất đai 2003; các Điều 26,
100, 166, 170, khoản 1 Điều 203 Luật đất đai 2013;
Căn cứ các Điều 76, 105, 107 Luật Đất đai năm 2003; các Điều 135, 136,
166, 170, 191, 192, khoản 1 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013;
Căn cứ điểm a khoản 1 điều 24, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khóa
14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Toà án.
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, hộ ông Cam Văn
C, bà Đặng Thị T (gồm Cam Văn C, Đặng Thị T, Cam Văn T1, Cam Thị V, Cam
Văn T2) được quản lý sử dụng toàn bộ diện tích đất tranh chấp 299,1m
2
thuộc
thửa 45 tờ bản đồ địa chính số 09 xã Đ theo GCNQSD đất số AP559808 do
UBND huyện V, tỉnh Lạng Sơn cấp ngày 19/12/2008 cho hộ ông Cam Văn C và
bà Đặng Thị T, địa danh Đ, phố Đ I, xã Đ, huyện V, tỉnh Lạng Sơn có các cạnh
12
được xác định bởi các điểm ABCDEFGHKL trên sơ đồ đo vẽ khu đất tranh chấp
kèm theo. Buộc bị đơn Cam Văn C1 và bà Phùng Thị H trả lại toàn bộ diện tích
đất nêu trên cho hộ ông Cam Văn C, bà Đặng Thị T sau khi thu hoạch xong các
cây lúa đã trồng hiện nay trên đất tranh chấp.
2. Về chi phí tố tụng: Nguyên đơn Cam Văn C tự nguyện chịu 7.266.000
đồng (Bảy triệu hai trăm sáu mươi sáu nghìn đồng) chi phí tố tụng, xác nhận ông
Cam Văn C đã nộp đủ số tiền nêu trên. Bị đơn Cam Văn C1 phải chịu 7.266.000
đồng (Bảy triệu hai trăm sáu mươi sáu nghìn đồng) chi phí tố tụng và có nghĩa
vụ hoàn trả số tiền nêu trên cho ông Cam Văn C.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn
yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền thì
phải chịu khoản tiền lãi đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất quy định tại
Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự.
3. Về án phí: Bị đơn Cam Văn C1 phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn
đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm để sung ngân sách Nhà nước.
4. Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại
phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án,
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo
bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được
niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh Lạng Sơn; THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn;
- CC THADS huyện V, tỉnh Lạng Sơn;
- Các đương sự;
- Lưu: HCTP, HSVA.
Hoàng Thị Thu Hường
13
Tải về
Bản án số 06/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 06/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 05/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 05/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 04/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm