Bản án số 05/2024/HS-ST ngày 12/01/2024 của TAND TX. Kinh Môn, tỉnh Hải Dương về tội trộm cắp tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 05/2024/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 05/2024/HS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 05/2024/HS-ST ngày 12/01/2024 của TAND TX. Kinh Môn, tỉnh Hải Dương về tội trộm cắp tài sản |
|---|---|
| Tội danh: | 138.Tội trộm cắp tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999) |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND TX. Kinh Môn (TAND tỉnh Hải Dương) |
| Số hiệu: | 05/2024/HS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 12/01/2024 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THỊ XÃ KINH MÔN
TỈNH HẢI DƯƠNG
–––––––––––––––
Bản án số: 05/2024/HS-ST
Ngày: 12/01/2024
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
–––––––––––––––––––––––––––––––
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ KINH MÔN, TỈNH HẢI DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Bùi Thế Hưng;
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Vũ Ngọc Sơn;
2. Bà Nguyễn Thị Xoa;
- Thư ký phiên tòa: Ông Đào Chính Hướng - Thư ký Tòa án nhân dân thị xã
Kinh Môn.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kinh Môn tham gia phiên tòa: Bà
Nguyễn Thị Hương - Kiểm sát viên.
Ngày 12 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Kinh Môn, tỉnh
Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 112/2023/TLST-
HS ngày 28 tháng 11 năm 2023, theo quyết định đưa ra xét xử số 108/2023/QĐXXST-
HS ngày 28 tháng 12 năm 2023 đối với:
1. Bị cáo Phạm Thị Hồng K, sinh năm 1993; Nơi cư trú: Thôn HB, xã YK,
huyện GL, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12;
dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Bố là ông Phạm
Sông T và mẹ là bà Nguyễn Thị T1 (đã chết); Gia đình có hai chị em, bị cáo là con
thứ hai; Tiền án: Bản án số 94/2021/HSST ngày 30/9/2021 của Tòa án nhân dân
thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.
Ngày 30/4/2022, K chấp hành xong hình phạt tù, ngày 13/12/2022 chấp hành
xong phần thi hành án dân sự của bản án (tiền án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ);
Tiền sự: Không;
Nhân thân:
- Bản án số 51/2014/HSST ngày 24/3/2014 của Tòa án nhân dân huyện Tiên
Du, Bắc Ninh xử phạt 28 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngày
25/4/2016, K chấp hành xong hình phạt tù, ngày 24/7/2018 chấp hành xong phần thi
hành án dân sự của bản án (tiền án phí 200.000đ).
2
+ Bản án số 39/2016/HSST ngày 19/12/2016 Tòa án nhân dân thành phố Bắc
Ninh, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 18 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. ngày
17/3/2018, K chấp hành xong hình phạt tù, ngày 24/7/2018, chấp hành xong phần
thi hành án dân sự của bản án (tiền án phí 200.000đ).
+ Ngày 26/8/2021, Công an phường Hiệp An, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải
Dương ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính (phạt tiền 1.500.000đ) đối với
Phạm Thị Hồng K về hành vi Trộm cắp tài sản, K chưa chấp hành nộp phạt, được
hưởng thời hiệu được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính.
Bị bắt tạm giam từ ngày 14/9/2023, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam
Công an tỉnh Hải Dương.
2. Bị hại: Ông Bùi Văn H, sinh năm 1976 và bà Tạ Thị L, sinh năm 1983; Đều
cư trú tại: Thôn TL, xã TL1, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương; (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau:
Sáng ngày 12/9/2023, Phạm Thị Hồng K đi bộ từ nhà sang địa phận thị xã
KM, tỉnh Hải Dương để xin tiền của người dân. Khoảng 16 giờ 50 phút cùng ngày
K đi đến nhà vợ chồng ông Bùi Văn H, bà Tạ Thị L ở Thôn TL, xã TL1, thị xã KM,
tỉnh Hải Dương thì thấy tại cổng nhà ông H có dựng 01 chiếc xe đạp điện màu trắng,
nhãn hiệu Hkbike (xe của vợ chồng ông H) chìa khóa diện vẫn cắm ở ổ khóa, xung
quanh không có người trông coi. Thấy vậy, K nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe đạp
điện trên. K đi đến ngồi lên xe vặn chìa khóa điện rồi điều khiển xe đi được khoảng
10m thì ông H đi từ trong nhà ra phát hiện hô hoán, đuổi theo. K tiếp tục điều khiển
xe đi được khoảng 80m thì bị ngã. Lúc này, tổ công tác thuộc Công an xã Thăng
Long đi tuần tra cùng người dân phát hiện, bắt giữ, thu giữ chiếc xe đạp có đặc điểm
trên.
Tại bản Kết luận định giá tài sản ngày 13/9/2023 của Hội đồng định gái tài sản
trong tố tụng hình sự thị xã Kinh Môn, kết luận : 01 xe đạp điện (nhãn hiệu Hkbike,
mua mới từ năm 2017) có giá trị còn lại là 6.780.000đ x 15% = 1.017.000đ.
Ngày 04/10/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thị xã Kinh Môn đã
trả lại cho ông Bùi Văn H chiếc xe đạp điện trên, ông H không yêu cầu K về trách
nhiệm dân sự
Tại bản Cáo trạng số 104/CT - VKS ngày 27/11/2023, Viện kiểm sát nhân dân
thị xã Kinh Môn đã truy tố bị cáo Phạm Hồng K về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy
định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa:
- Đại diện VKSND thị xã Kinh Môn giữ nguyên quyết định truy tố; Đề nghị
về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Thị Hồng K phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Đề
3
nghị áp dụng: điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s, h khoản 1 Bộ luật hình sự; Điều
136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí, lệ phí; Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016
của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Đề nghị về hình phạt: Xử phạt bị cáo Phạm Thị
Hồng K từ 07 đến 10 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 14/9/2023,
không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung. Ngoài ra, còn đề nghị bị cáo phải chịu án
phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã nêu và đề nghị
HĐXX xem xét khoan hồng xử cho bị cáo một hình phạt nhẹ nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an thị xã Kinh Môn; Viện kiểm sát nhân
dân thị xã Kinh Môn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng
về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều
tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của
Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố
tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai tại cơ quan điều tra, phù
hợp với biên bản vụ việc, lời khai của người bị hại, vật chứng đã thu giữ, kết luận
định giá tài sản cùng các tài liệu, chứng cứ khác do Cơ quan điều tra thu thập có
trong hồ sơ vụ án. Đã có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 16 giờ 50 phút ngày 12/9/2023,
tại khu vực cổng nhà vợ chồng ông Bùi Văn H, bà Tạ Thị L ở Thôn TL, xã TL1, thị
xã KM, tỉnh Hải Dương, Phạm Thị Hồng K đã có hành vi trộm cắp của vợ chồng
ông H 01 xe đạp điện nhãn hiệu Hkbike màu trắng, trị giá 1.017.000đ.
[3] Về tội danh và điều khoản truy tố: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách
nhiệm hình sự, biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng vì tham lam nhất
thời mà bị cáo đã lợi dụng sơ hở, lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, xâm phạm
đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được luật hình sự bảo vệ. Mặc dù
giá trị tài sản bị trộm cắp là 1.017.000đ (dưới 2.000.000đ) nhưng bị cáo đã bị kết án
về tội Trộm cắp tài sản (theo Bản án số 94/2021/HSST ngày 30/9/2021 của Tòa án
nhân dân thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương) chưa được xóa án tích mà còn vi phạm
nên đã đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản theo định khung quy định tại điểm b
khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Do vậy, việc truy tố, xét xử bị cáo theo tội danh,
điều luật đã viện dẫn là có căn cứ, đúng người đúng tội và đúng pháp luật.
[4] Về tính chất, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Quá trình điều tra, xét xử bị cáo
đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bên cạnh đó, với việc giá trị tài sản bị trộm
cắp thấp hơn mức cấu thành vật chất của khoản 1 Điều 173 BLHS nên có cơ sở để
xem xét cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy
định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 BLHS. Mặc dù bị cáo không phải chịu tình tiết
4
tăng nặng trách nhiệm hình sự nào nhưng về nhân thân bị cáo là đối tượng nghiện ma
túy, có nhiều hành vi vi phạm pháp luật đã bị xử lý bằng nhiều bản án, quyết định xử
phạt vi phạm hành chính nhưng không lấy đó làm bài học sửa chữa bản thân. Vì vậy,
cần xem xét nên cho bị cáo một bản án nghiêm khắc để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội
một thời gian nhất định để bị cáo có thể tu dưỡng, rèn luyện bản thân trở thành người
có ích cho xã hội.
[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định, bị cáo còn có thể bị áp dụng hình
phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo là đối tượng không có công việc
và thu nhập ổn định, nên không phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6]. Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị trộm cắp không bị hỏng hóc gì đã được
trả lại cho người bị hại, người bị hại không yêu cầu bồi thường nên HĐXX không
xem xét.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ
luật hình sự; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí, lệ phí; Nghị quyết 326 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Xử:
1/ Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Thị Hồng K phạm tội “Trộm cắp tài
sản”;
2/ Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Phạm Thị Hồng K 09 (chín) tháng tù, thời
hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 14/9/2023;
3/ Về án phí: Buộc bị cáo Phạm Thị Hồng K phải chịu 200.000đ án phí hình
sự sơ thẩm;
5/ Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, vắng mặt bị hại.
Báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày tuyên
án, bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án
hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.
Nơi nhận:
- VKS nhân dân tnh Hải dương;
- VKSND thị xã Kinh Môn;
- Công an thị xã Kinh Môn;
- Cơ quan THA CA TX Kinh Môn;
- Trại tạm giam CA tnh Hải Dương.
- Chi cục THADS thị xã Kinh Môn.
- Sở Tư pháp tnh Hải Dương.
- Bị cáo;
- Bị hại;
- Lưu hồ sơ;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Bùi Thế Hưng
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 15/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 14/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 14/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 12/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 06/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 05/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 01/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 27/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 23/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 16/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Bản án số 04/2024/HS-PT ngày 05/02/2024 của TAND TP. Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình về tội trộm cắp tài sản
Ban hành: 05/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Bản án số 14/2024/HS-ST ngày 05/02/2024 của TAND huyện Hòa Vang, TP. Đà Nẵng về tội trộm cắp tài sản
Ban hành: 05/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 01/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 31/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 31/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 31/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 31/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 30/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 30/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm