Bản án số 03/2018/HS-ST ngày 23/01/2018 của TAND TP. Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 03/2018/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 03/2018/HS-ST ngày 23/01/2018 của TAND TP. Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Tội danh: 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Uông Bí (TAND tỉnh Quảng Ninh)
Số hiệu: 03/2018/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 23/01/2018
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ - TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 03/2018/HS-ST NGÀY 23/01/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 23 tháng 01 năm 2018, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 114/2017/TLST-HS ngày 25 tháng 12 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2018/QĐXXST- HS ngày 10 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đinh Khắc V (tên gọi khác: Gh) sinh ngày 12 tháng 8 năm 1980 tại xã LL, huyện TN, thành phố Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn Đường Hương, xã LL, huyện TN, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh Khắc B (đã chết) và bà Đinh Thị N; có vợ: Nguyễn Thị S sinh năm 1983 và 02 con: lớn sinh năm 2003, nhỏ sinh năm 2005; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ từ ngày 09/11/2017 đến ngày 15/11/2017, tạm giam từ ngày 15/11/2017, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh, có mặt tại phiên tòa.

Người chứng kiến:

1. Anh Nguyễn Văn C; sinh năm 1965; nơi cư trú: Tổ 4, khu 1, phường YT, thành phố UB, tỉnh Quảng Ninh - Vắng mặt tại phiên tòa.

2. Anh Nguyễn Văn H; sinh năm 1967; nơi cư trú: Tổ 17, khu Bí Giàng, phường YT, thành phố UB, tỉnh Quảng Ninh - Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11giờ 30 phút, ngày 09/11/2017 tại khu vực ngã tư thuộc khu Phú Thanh Đông, phường YT, thành phố UB, tỉnh Quảng Ninh, Đội Cảnh sát Điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố UB phối hợp cùng Công an phường YT, thành phố UB bắt giữ Đinh Khắc V, sinh năm 1980, trú tại thôn Đường Hương, xã LL, huyện TN, thành phố Hải Phòng có hành vi cất giấu 05 (năm) gói giấy chứa chất bột màu trắng, dạng cục, dưới lót giầy chân bên phải của V đang đi. V khai chất bột mầu trắng là ma túy Heroine, vừa mua ở Hải Phòng về mục đích để sử dụng, khi đến thành phố UB thì bị thu giữ. Ngoài ra, Cơ quan điều tra còn thu giữ của V một chiếc ví da bên trong có 23.000 (Hai mươi ba nghìn) đồng và 01 (một) điện thoại di động Goly màu hồng của V.

Tại bản kết luận giám định số 737/GĐMT ngày 11/11/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Ninh thể hiện: Chất bột mầu trắng, ghi thu của Đinh Khắc V trong mẫu vật ký hiệu từ M1 đến M5 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, trọng lượng:

+ M1: 0,16gam (Không phảy một sáu gam);

+ M2: 0,115 gam (Không phẩy một một lăm gam);

+M3: 0,163 gam (Không phảy một sáu ba gam);

+ M4: 0,173 gam(Không phảy một bẩy ba gam);

+ M5: 0,162 gam (Không phẩy một sáu hai gam). Tổng trọng lượng là 0,773gam Heerroin.

Quá trình điều tra, V khai nhận: V đi tầu đánh cá tại khu vực Bến Gio, phường CT, thành phố CP. Khoảng 07 giờ, ngày 09/11/2017, V một mình bắt xe khách sang thành phố Hải Phòng, mục đích mua ma túy về sử dụng Khi đi V mang theo 1.300.000 (Một triệu ba trăm nghìn) đồng. Đến khu vực cây xăng Cầu Bính, thuộc nội thành Hải Phòng, V xuống xe, thuê xe ôm của một người không quen biết đến khu vực Cầu Quay rồi đi bộ vào ngõ dọc theo đường tàu, V gặp một nam thanh niên khoảng 15 tuổi, người này hỏi V “Có lấy hàng không?” ý nói có mua ma túy không, V trả lời: “Lấy hàng trắng” ý nói mua ma túy Heroin. Vẻ đưa cho thanh niên này 900.000 (Chín trăm nghìn) đồng. Người thanh niên cầm tiền rồi đi một lúc, khi quay lại đưa cho V 05 (năm) gói giấy, bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục. V ra chỗ vắng, mở một gói ra kiểm tra dùng thử một ít, thấy đúng là ma túy liền cất dưới lót giầy bên chân phải đang đi rồi bắt xe về Quảng Ninh.

Khi đến địa phận thành phố UB thì bị lực lượng công an kiểm tra đã thu giữ số ma túy trên.

Đối với người nam giới ở khu vực cây xăng Cầu Bính, thuộc nội thành Hải Phòng, đã bán ma túy cho V, Cơ quan điều tra không xác định được lai lịch cụ thể nên không có cơ sở đề cập xử lý.

Tại Cáo trạng số 04/KSĐT-HS ngày 21/12/2017, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí đã truy tố Đinh Khắc V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa: Bị cáo khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy đúng như tóm tắt nội dung vụ án đã nêu và xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí giữ nguyên quyết định truy tố đối với Đinh Khắc V như bản Cáo trạng. Sau khi xem xét đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Đinh Khắc Vẻ với mức hình phạt từ 24 đến 30 tháng tù.

Về xử lý vật chứng, áp dụng: điểm a khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, đề nghị HĐXX:

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì thư số 737/GĐMT của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh hoàn lại sau giám định; trả bị cáo số tiền 23.000 (hai mươi ba nghìn) đồng thuộc sở hữu của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Tại lời nói sau cùng, bị cáo đã nhận thức được hành vi phạm tội nên đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về việc định tội: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai xác nhận của những người làm chứng và nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ của bị cáo, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 11 giờ 30 phút, ngày 09/11/2017 tại khu vực ngã tư thuộc khu Phú Thanh Đông, phường YT, thành phố UB, tỉnh Quảng Ninh, Đinh Khắc V có hành vi tàng trữ trái phép 0,773 gam (Không phẩy bảy bảy ba gam) Heroine nhằm mục đích sử dụng thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố UB phối hợp cùng Công an phường YT, thành phố UB bắt quả tang.

Xét về nhân thân, bị cáo là người có đủ năng lực, trách nhiệm hình sự; phạm tội lần đầu; hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì hành vi đó đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma tuý. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí truy tố và kết luận về hành vi phạm tội đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[2] Về hình phạt: Theo quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 thì khung hình phạt áp dụng đối với người phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” từ hai năm đến bảy năm tù. Theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì khung hình phạt áp dụng đối với người phạm tội này là từ một năm đến năm năm tù. Đối chiếu với quy định của hai bộ luật trên thì thấy: Khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 có khung hình phạt cao hơn khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 về cùng một tội nên Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015 để xem xét khi quyết định hình phạt theo nguyên tắc có lợi đối với bị cáo. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Để tăng cường biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm nói chung cũng như để giáo dục, cải tạo riêng đối với bị cáo cần có một hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để bị cáo cai nghiện, sửa chữa lỗi lầm của bản thân.

[3] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ (Năm triệu đồng) đến 500.000.000đ (Năm trăm triệu đồng). Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng: 01 (một) chiếc ví da và 01 (một) điện thoại di động Goly màu hồng thu giữ của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội cơ quan điều tra đã trả lại cho người nhà bị cáo V nên không đề cập xử lý; 01 (một) phong bì thư số 737/GĐMT của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh hoàn lại sau giám định là ma túy loại Heroin thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, nên tịch thu tiêu hủy. Số tiền 23.000đ (Hai mươi ba nghìn đồng) thu giữ của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Uông Bí, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015; (Bị cáo còn được áp dụng: Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7 và khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự 2015).

1. Tuyên bố: bị cáo Đinh Khắc V phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Xử phạt: Đinh Khắc V 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là ngày 09/11/2017.

3. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng: điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

+ Tịch thu cho tiêu huỷ 01 (một) phong bì thư số 737/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh hoàn lại sau giám định.

+ Trả lại bị cáo Đinh Khắc V số tiền 23.000đ (Hai mươi ba nghìn đồng) nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Tình trạng và đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng hồi 09 giờ 00 phút, ngày 26 tháng 12 năm 2017 giữa Công an thành phố Uông Bí và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh).

4. Về án phí: Áp dụng: khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 3; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBNTQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Đinh Khắc V phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) vào ngân sách Nhà nước.

5. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Tải về
Bản án số 03/2018/HS-ST Bản án số 03/2018/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất