Quyết định số 44/2024/TT-DS ngày 14/06/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Quyết định số 44/2024/TT-DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Quyết định số 44/2024/TT-DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Quyết định 44/2024/TT-DS
Tên Quyết định: | Quyết định số 44/2024/TT-DS ngày 14/06/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Tái thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
Số hiệu: | 44/2024/TT-DS |
Loại văn bản: | Quyết định |
Ngày ban hành: | 14/06/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp quyền sử dụng đất do lấn chiếm |
Tóm tắt Quyết định
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TẠI ĐÀ NẴNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Quyết định tái thẩm
Số: 44/2024/DS-TT
Ngày 14/6/2024
Vụ án: “Tranh chấp quyền sử dụng đất”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
ỦY BAN THẨM PHÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng
gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: ông Nguyễn Văn Tào.
Các Thẩm phán: ông Trần Quốc Cường và ông Lê Tự.
- Thư ký phiên tòa: bà Nguyễn Thị Nga – Thư ký Tòa án nhân dân cấp cao
tại Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên
tòa: ông Đoàn Ngọc Thanh - Kiểm sát viên.
Ngày 14 tháng 06 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà
Nẵng mở phiên tòa tái thẩm xét xử vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất”, giữa
các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Trương Nguyễn Kim P; địa chỉ cư trú: Nhà số E N,
phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Kim L; địa chỉ cư trú: Nhà số G A, phường T,
thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn: Luật sư Phạm Thị T -
Văn phòng L4, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đ; địa chỉ: Số A A, thành phố B, tỉnh Đắk
Lắk.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Bà Trương Nguyễn Quỳnh T1; địa chỉ cư trú: Nhà số E N, phường T,
thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
3.2. Bà Trần Thị L1; địa chỉ cư trú: Nhà số E Y, phường T, thành phố B,
tỉnh Đắk Lắk.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn, bà Trương Nguyễn Kim P trình bày:
Nguồn gốc thửa đất của bà (P) là do nhận chuyển nhượng của chị ruột là bà
Trương Nguyễn Quỳnh T1. Thửa đất này trước đây do bà T1 nhận chuyển nhượng
2
của bà Trần Thị L1. Ngày 15-7-2003, bà L1 tách cho mẹ ruột là bà Nguyễn Thị G
(mẹ bị đơn) một phần đất (đã xây dựng nhà cấp 4 và tường rào xây dựng bằng gạch
kiên cố), diện tích đất còn lại, bà L1 bán cho chị bà (bà T1). Năm 2012, bà G tự ý
dựng thêm bờ rào bằng cột bê tông rào lưới B40 khoảng 0,8 m qua phần đất của
chị bà (bà T1) và trồng cây cối trên phần đất lấn chiếm. Năm 2021, bà (P) nhận
chuyển nhượng lại quyền sử dụng đất số CU 450036, thửa đất số 686 (cũ là thửa số
92), tờ bản đồ số 39, có tổng diện tích là 3.392,1 m
2
của bà T1 và đo đạc lại toàn
bộ diện tích. Sau khi nhận chuyển nhượng đất, bà yêu cầu bà Nguyễn Thị Kim L
phải tháo, dỡ toàn bộ cây trồng và bờ rào để trả phần đất tự ý lần chiếm, nhưng bà
L không đồng ý. Nay, bà khởi kiện đề nghị Tòa án buộc bà Nguyễn Thị Kim L
phải tháo, dỡ toàn bộ cây trồng và bờ rào để trả lại phần đất 34,0 m
2
theo kết quả
đo đạc của cơ quan chuyên môn.
Bị đơn, bà Nguyễn Thị Kim L trình bày:
Mẹ bà là bà Nguyễn Thị G nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bà
Trần Thị L1 với điện tích 960 m
2
, trong đó có 810 m
2
đất trồng cây lâu năm và 150
m
2
đất ở, thuộc thửa đất số 92 a, tờ bản đồ 39, với kích thước chiều rộng theo tỉnh
lộ 1 là 12 m, chiều sâu 80 m, tại thôn H, xã E, huyện B. Việc chuyển nhượng được
lập bằng văn bản (có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã E). Sau khi nhận chuyển
nhượng, mẹ bà (Gần) xây nhà cấp 4, trồng các cây lâu năm và dựng hàng rào xung
quang thửa đất nhận chuyển nhượng. Tại thời điểm dựng hàng rào B40 và trồng
các cây giáp ranh với thửa đất số 686 (số cũ 92), tờ bản đồ 39, thuộc quyền quản lý
sử dụng của bà Trương Nguyễn Quỳnh T1, thì bà T1 không có ý kiến hay phản đối
việc mẹ bà dựng bờ rào và trồng cây giáp ranh với thửa đất của bà T1.
Đến năm 2009, mẹ bà tặng cho lại toàn bộ quyền sử dụng đất và toàn bộ tài
sản trên đất cho bà và bà đã sử dụng ổn định từ thời điểm đó cho đến nay. Từ lúc
mẹ bà nhận chuyển nhượng đến thời điểm bà được tặng cho quyền sử dụng đất và
cho đến nay, thửa đất vẫn sử dụng ổn định, không tranh chấp với ai. Ranh giới trên
thực tế giáp ranh với thửa đất số 686 (số cũ 92), tờ bản đồ 39 vẫn giữ nguyên,
không có sự lấn chiếm hay thay đổi hiện trạng gì. Ngày 04-3-2021, bà Trương
Nguyễn Kim P mới nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và khi nhận chuyển
nhượng, bà P đã xem xét ngoài thực địa, đồng ý nhận chuyển nhượng và làm thủ
tục chuyển nhượng. Nay, bà Trương Nguyễn Kim P khởi kiện về việc bà (L) lấn
chiếm đất diện tích 34 m
2
theo yêu cầu đo Trích lục thửa đất của bà P là không có
căn cứ; đồng thời, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà. Vì vậy, đề
nghị Tòa án không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà P để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của bà.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Trương Nguyễn Quỳnh T1 trình
bày:
Ngày 19-01-2021, bà (Trâm) có sang nhượng lại thửa đất số 686 (số cũ 92), tờ
bản đồ số 39, có diện tích 3.392,1 m
2
tại thôn H, xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk cho
bà Trương Nguyễn Kim P. Bà đã bàn giao đất theo hiện trạng quyền sử dụng đất
được Nhà nước công nhận (Mặt tiền tỉnh lộ 1 có chiều dài 17 m). Hiện nay, bà
3
Nguyễn Thị Kim L không giao trả phần đất lấn chiếm, do đó bà đề nghị Tòa án
giải quyết theo quy định của pháp luật.
(Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ và
xác định trên phần đất tranh chấp gồm có các tài sản: Bờ rào B40 trụ bê tông rào
dọc theo lô đất mở rộng từ bờ tường rào cố định, rào sâu ra hết phần đất của bà
Nguyễn Thị Kim L. Trên đất có 01 hầm rút xây thành có tấm đan đậy lại, 03 cây
cau vua, 01cây khế, 01 cây điều thường, 01cây hoa giấy, 01 cây thần tài và một số
loại cây hoa khác.
Tại Biên bản định giá tài sản ngày 19-8-2022, Hội đồng định giá tài sản xác
định: Đất, cây trồng và vật kiến trúc khác có tổng giá trị là 141.980.300 đồng; diện
tích đất tranh chấp 34,0 m
2
có giá thị trường là 135.000.000 đồng).
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 24/2022/DS-ST ngày 17-12-2022, Tòa án nhân
dân huyện Buôn Đôn quyết định:
Căn cứ khoản 9 Điều 26, Điều 147, Điều 186, Điều 187, Điều 188, Điều 227
và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 158, khoản 2 Điều 164 của Bộ luật
dân sự năm 2015; các Điều 100, 166 và 203 của Luật Đất đai năm 2013; khoản 2,
khoản 5 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Trương Nguyễn Kim P.
1. Buộc bà Nguyễn Thị Kim L trả lại diện tích đất lấn chiếm 34,0 m
2
của thửa
đất số 686, tờ bản đồ số 39, tại thôn H, xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk cho bà Trương
Nguyễn Kim P (Chi tiết phần đất phải trả theo Trích lục sơ đồ địa chính số
1557/TL-CVBĐ-KTĐC ngày 23-6-2022 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai
huyện B).
2. Buộc bà Nguyễn Thị Kim L phải tháo đỡ, di dời bờ rào B40 trụ bê tông rào
dọc theo lô đất mở rộng từ bờ tường rào cố định rào sâu ra hết phần đất của bà
Nguyễn Thị Kim L, trên đất có 01 hầm rút xây thành có tấm đan đậy lại, 03 cây
cau vua, 01 cây khế, 01 cây điều thường, 01 cây hoa giấy, 01 cây thần tài và một
số loại cây hoa khác trên phần đất lấn chiếm 34.0 m
2
của thửa đất số 686, tờ bản đồ
số 39, tại thôn H, xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, chi phí tố tụng;
quyền, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
- Ngày 22-12-2022, bị đơn là bà Nguyễn Thị Kim L kháng cáo, đề nghị Tòa
án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 162/2023/DS-PT ngày 20-4-2023, Tòa án
nhân dân tỉnh Đắk Lắk quyết định:
Căn cứ khoản 2 Điều 308 và Điều 309 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án.
4
Chấp nhận một phần đơn kháng cáo của bị đơn là bà Nguyễn Thị Kim L.
- Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 24/2022/DS-ST ngày 07-12-2022
của Tòa án nhân huyện B.
Căn cứ khoản 9 Điều 26, Điều 147, Điều 186, Điều 187, Điều 188, Điều 227
và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 158, khoản 2 Điêu 164 của Bộ luật
Dân sự năm 2015; các Điều 100, 166 và 203 của Luật Đất đai năm 2013, tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trương Nguyễn Kim P.
Buộc bà Nguyễn Thị Kim L phải trả lại diện tích đất lấn chiếm 34 m
2
của thửa
đất số 686, tờ bản đồ số 39, tại thôn H, xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk và phải tháo
dỡ, di dời hàng rào lưới B40 rào dọc theo lô đất mở rộng từ bờ rào cố định rào sâu
ra hết phần đất của bà Nguyễn Thị Kim L cho bà Trương Nguyễn Kim P (Chi tiết
theo Trích lục hồ sơ địa chính số 1556/TL-CNBĐ-KTĐC ngày 23-6-2022 của Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đại huyện B).
2. Bác một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trương Nguyễn Kim P về buộc bà
Nguyễn Thị Kim L tháo, dỡ toàn bộ cây trồng, hầm rút trên diện tích đất lấn chiếm
34 m
2
của thửa đất số 686, tờ bản đồ số 39 tại thôn H, xã E, huyện B, tỉnh Đắk
Lắk.
Giao các tài sản gồm: 01 hầm rút xây thành có tấm đan đậy lại, 03 cây cau
vua, 01 cây khế, 01cây điều thường, 01 cây hoa giấy, 01 cây thần tài và một số loại
cây hoa khác trên diện tích đất lấn chiếm 34 m
2
của thửa đất số 686, tờ bản đồ số
39 tại thôn H, xã E, huyện B cho bà Trương Nguyễn Kim P được quyền sở hữu.
3. Buộc bà Trương Nguyễn Kim P phải thanh toán giá trị các tài sản, cây
trồng gắn liền với diện tích đất lấn chiếm 34 m
2
và hỗ trợ di dời hàng rào lưới B40
tại thửa đất số 686, tờ bản đồ số 39 tại thôn H, xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk số tiền
tổng cộng là 6.980.300 đồng (sáu triệu chín trăm tám mươi nghìn ba trăm đồng)
cho bà Nguyễn Thị Kim L.
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí, chi phí tố tụng,
quyền và nghĩa vụ thi hành án theo quy định của pháp luật.
Ngày 27-7-2023, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng nhận được Đơn của
bà Trương Nguyễn Kim L2 đề nghị xem xét theo thủ tục tái thẩm đối với Bản án
dân sự phúc thẩm số 162/2023/DS-PT ngày 20-4-2023 của Tòa án nhân dân tỉnh
Đắk Lắk; ngày 21-12-2023 bà L2 tiếp tục có Đơn đề nghị xem xét theo thủ tục tái
thẩm đối với bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.
Tại Quyết định kháng nghị tái thẩm số 13/KN-DS ngày 10-5-2024 của
Chánh án Tòa án nhân nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Ủy ban Thẩm phán
Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử tái thẩm, hủy toàn bộ Bản án dân sự
phúc thẩm số 162/2023/DS-PT ngày 20-4-2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk
Lắk và Bản án dân sự sơ thẩm số 24/2022/DS-ST ngày 17-12-2022 của Tòa án
nhân dân huyện Buôn Đôn, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Buôn
Đôn để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm theo đúng quy định của pháp luật.
- Tại phiên tòa tái thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà
Nẵng đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng chấp
5
nhận toàn bộ Quyết định kháng nghị tái thẩm số 13/KN-DS ngày 10-5-2024 của
Chánh án Tòa án nhân nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1]. Xem xét các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, thấy rằng:
Diện tích đất của nguyên đơn và của bị đơn đều có nguồn gốc là của bà
Nguyễn Thị L3, bà L3 được Ủy ban nhân dân huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số 218875 QSDĐ/RH ngày 21-8-2000, gồm thửa đất số 92 có diện tích
3.862 m
2
và thửa số 64 có diện tích 2.548 m
2
. Năm 2003, bà L3 tách thửa đất số
92, tờ bản đồ số 39 thành 02 thửa: (1) thửa đất số 92 có diện tích 3.392,1 m
2
và (2)
thửa đất số 92 a có diện tích 960 m
2
.
[2]. Theo trình bày của nguyên đơn (bà Trương Nguyễn Kim P) và của người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (bà Trương Nguyễn Quỳnh T1), thì nguồn gốc
thửa đất mà bà T1 chuyển nhượng lại cho bà P là do trước đó bà T1 nhận chuyển
nhượng của bà Trần Thị L1. Tại Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
21-8-2000, thể hiện: Bà Trần Thị L1 chuyển nhượng cho bà Trương Nguyễn
Quỳnh T1 diện tích 5.420 m
2
đất, tại thửa đất số 92 và thửa đất số 64, tờ bản đồ số
39, tại Mục 4 của Hợp đồng thể hiện: “Các cam kết khác: Mặt tiền tỉnh lộ ngang
17 m”, trong hợp đồng chuyển nhượng không ghi tứ cận, không có biên bản bàn
giao thực địa và không có công chứng, chứng thực. Theo Hợp đồng chuyển
nhượng này, thì bà T1 nhận chuyển nhượng diện tích 5.420 m
2
đất và mặt tiền tỉnh
lộ 1 ghi ngang 17 m, nhưng ngày 10-9-2020, bà T1 lại được Ủy ban nhân dân
huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CU 450036 đối với thửa đất
số 686 (số 92 cũ), tờ bản đồ số 39, chỉ có diện tích 3.392,1 m
2
, nhưng chiều rộng
mặt tiền theo tỉnh lộ 1 vẫn là 17 m; đến ngày 04-03-2021, đã được điều chỉnh biến
động tại Trang 04 cho nguyên đơn là bà Trương Nguyễn Kim P.
Như vậy, có sai lệch về diện tích đất, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án
cấp phúc thẩm không thu thập hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của
bà Trương Nguyễn Quỳnh T1 để xác định lý do gì mà bà T1 được cấp quyền sử
dụng đất có diện tích ít hơn so với diện tích nhận chuyển nhượng; cơ sở nào bà T1
được cấp diện tích đất 3.392,1 m
2
; vì sao tổng diện tích được cấp theo Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất ít hơn so với diện tích ghi trong hợp đồng nhận chuyển
nhượng, nhưng chiều rộng mặt tiền theo tỉnh lộ 1 vẫn đủ 17 m; khi cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho bà T1 có Biên bản đo đạc thực địa, có ký giáp ranh tứ
cận của các hộ liền kề không.
[3]. Ngày 04-08-2003, bà Trần Thị L1 chuyển nhượng cho mẹ ruột là bà
Nguyễn Thị G diện tích 960 m
2
đất tại thửa đất số 92 (cũ), tờ bản đồ số 39 cũng
không ghi chiều dài các cạnh và tứ cận. Sau đó, bà G được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số AP 140687 đối với thửa đất số 92 a, tờ bản đồ số 39, diện
tích 960 m
2
, chiều rộng theo tỉnh lộ 1 dài 12 m. Ngày 16-11-2009, bà G tặng cho bị
đơn là bà Nguyễn Thị Kim L toàn bộ diện tích đất nêu trên. Theo trình bày của bị
đơn (bà L), thì từ lúc nhận chuyển nhượng đến thời điểm bà L được tặng cho
quyền sử dụng đất cho đến nay, thửa đất sử dụng ổn định, không có tranh chấp với
6
ai, ranh giới trên thực tế giáp ranh với thửa đất số 686 (số cũ 92), tờ bản đồ số 39
vẫn giữ nguyên, không có thay đổi hiện trạng; ngày 04-3-2021, nguyên đơn (bà P)
mới nhận chuyển nhượng đất, khi nhận chuyển nhượng bà P đã được bà T1 bàn
giao đất ngoài thực địa và đồng ý nhận chuyển nhượng.
Tòa án cấp phúc thẩm chỉ căn cứ vào kết quả xem xét thẩm định tại chỗ ngày
18-02-2022 của Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn, thể hiện: “Đối với lô đất của
bà L và bà P theo đường tỉnh lộ 1, có tổng chiều dài 28,50 m. Phần đất bà L từ nhà
hàng T2 qua phía bờ rào B40 giáp nhà bà P có chiều dài 12,30 m. Phần đất bà P
là 16,20 m. Phía sau đuôi lô đất của bà L từ nhà hàng T2 qua là 12,75 m” và Trích
lục bản đồ địa chính số 1556 ngày 23-6-2022 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký
đất đai huyện B thể hiện: “Thửa đất số 686, tờ bản đồ số 39, diện tích 1630,0 m
2
,
chiều ngang theo tỉnh lộ 1 là 16,20 m”, từ đó giữ nguyên quyết định của Tòa án
cấp sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trương Nguyễn Kim P, buộc bà
Nguyễn Thị Kim L trả lại diện tích 34 m
2
của
thửa đất số 686, tờ bản đồ số 39, tại
thôn P, xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk mà chưa làm rõ sự sai lệch về diện tích đất
như phân tích tại mục [2.1] là chưa đủ căn cứ vững chắc.
[4]. Bà L có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục tái thẩm và đồng thời xuất trình
chứng cứ mới là Trích lục bản đồ địa chính do Văn phòng đăng ký đất đai huyện B
thực hiện ngày 17-5-2023. Theo Trích lục này, thì diện tích đất thực tế bà L đang
sử dụng là 949 m
2
, thiếu 11 m
2
so với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được
cấp
(chiều ngang theo tỉnh lộ 1 là 11,20 m) và chiều ngang bao gồm cả phần đang
tranh chấp mới đủ 12 m theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp.
Xem xét, đối chiếu Kết quả xem xét thẩm định tại chỗ của Tòa án nhân dân
huyện Buôn Đôn với Trích lục bản đồ địa chính số 1556 ngày 23-6-2022 trích đo
diện tích đất của thửa đất số 686 (số cũ 92) của nguyên đơn (bà P) và Trích lục bản
đồ địa chính ngày 17-5-2023 trích đo diện tích đất của bị đơn (bà L), thì các số liệu
là khác nhau, do đó cần xem xét thẩm định, trích đo lại cả diện tích đất của bà P và
bà L để xác định bị đơn (bà L) có lấn chiếm đất của nguyên đơn không.
Xét thấy, Trích lục bản đồ địa chính do Văn phòng đăng ký đất đai huyện B
thực hiện ngày 17-5-2023, do bị đơn (bà L) cung cấp là tình tiết mới làm thay đổi
cơ bản nội dung vụ án. Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương
sự, cần kháng nghị theo thủ tục tái thẩm, hủy bản án dân sự phúc thẩm và bản án
dân sự sơ thẩm để giải quyết sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào Điều 351; Điều 352 và Điều 356, Điều 357 Bộ luật tố tụng dân
sự;
1. Chấp nhận Quyết định kháng nghị tái thẩm số 13/KN-DS ngày 10-5-2024
của Chánh án Tòa án nhân nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, hủy toàn bộ hủy toàn
bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 162/2023/DS-PT ngày 20-4-2023 của Tòa án nhân
7
dân tỉnh Đắk Lắk và Bản án dân sự sơ thẩm số 24/2022/DS-ST ngày 17-12-2022
của Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn.
2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk để
giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm, đúng quy định của pháp luật.
Quyết định tái thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Hội đồng tái thẩm ra
quyết định.
Nơi nhận:
- Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học-TANDTC;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk;
- Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk;
- Chi cục THADS huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk;
- Các đương sự (theo địa chỉ);
- Lưu: Phòng HCTP; Phòng GĐKT DS-KDTM-LĐ và
hồ sơ vụ án.
TM. ỦY BAN THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Văn Tào
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 16/05/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm
2
Ban hành: 12/05/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm
3
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm
4
Ban hành: 07/05/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm
5
Ban hành: 05/05/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm
6
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm
7
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm
8
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm
9
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm
10
Quyết định số 24/2025/QĐPT-DS ngày 25/04/2025 của TAND tỉnh Tây Ninh về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm
11
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm
12
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm
13
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm
14
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm
15
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm
16
Ban hành: 21/04/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm
17
Ban hành: 21/04/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm
18
Ban hành: 18/04/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm
19
Ban hành: 18/04/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm
20
Ban hành: 17/04/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm