Quyết định số 44/2024/TT-DS ngày 14/06/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Quyết định 44/2024/TT-DS

Tên Quyết định: Quyết định số 44/2024/TT-DS ngày 14/06/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Tái thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại Đà Nẵng
Số hiệu: 44/2024/TT-DS
Loại văn bản: Quyết định
Ngày ban hành: 14/06/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp quyền sử dụng đất do lấn chiếm
Tóm tắt Quyết định

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TẠI ĐÀ NẴNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Quyết định tái thẩm
Số: 44/2024/DS-TT
Ngày 14/6/2024
Vụ án: “Tranh chấp quyền sử dụng đất”
NHÂN DANH
C CNG HÒA XÃ HI CH NGHĨA VIỆT NAM
Y BAN THM PHÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN CP CAO TI ĐÀ NẴNG
- Thành phn y ban Thm phán Tòa án nhân dân cp cao ti Đà Nng
gm có:
Thm phán - Ch ta phiên tòa: ông Nguyn Văn Tào.
Các Thm phán: ông Trn Quc Cưng và ông Lê T.
- Thư ký phiên tòa: bà Nguyn Th Nga Thư ký Tòa án nhân dân cp cao
ti Đà Nng.
- Đại din Vin kim sát nhân dân cp cao ti Đà Nng tham gia phiên
tòa: ông Đoàn Ngc Thanh - Kim sát viên.
Ngày 14 tháng 06 năm 2024, ti tr s Tòa án nhân dân cp cao ti Đà
Nng m phiên tòa tái thm xét x v án Tranh chp quyn s dng đất, gia
các đương s:
1. Nguyên đơn: Bà Trương Nguyn Kim P; địa ch cư trú: Nhà s E N,
phường T, thành ph B, tnh Đắk Lk.
2. B đơn: Bà Nguyn Th Kim L; địa ch cư trú: Nhà s G A, phường T,
thành ph B, tnh Đắk Lk.
Người bo v quyn và li ích hp pháp cho b đơn: Lut sư Phm Th T -
Văn phòng L4, thuc Đoàn Lut sư tnh Đ; địa ch: S A A, thành ph B, tnh Đắk
Lk.
3. Người có quyn li, nghĩa v liên quan:
3.1. Bà Trương Nguyn Qunh T1; địa ch cư trú: Nhà s E N, phường T,
thành ph B, tnh Đắk Lk.
3.2. Bà Trn Th L1; địa ch cư trú: Nhà s E Y, phường T, thành ph B,
tnh Đắk Lk.
NI DUNG V ÁN:
Nguyên đơn, bà Trương Nguyễn Kim P trình bày:
Nguồn gốc thửa đất của (P) do nhận chuyển nhượng của chị ruột
Trương Nguyễn Quỳnh T1. Thửa đất này trước đây do T1 nhận chuyển nhượng
2
của Trần Thị L1. Ngày 15-7-2003, L1 tách cho mẹ ruột Nguyễn Thị G
(mẹ bị đơn) một phần đất (đã xây dựng nhà cấp 4 và tường rào xây dựng bằng gạch
kiên cố), diện tích đất còn lại, L1 bán cho chị (bà T1). Năm 2012, G tự ý
dựng thêm bờ rào bằng cột tông rào lưới B40 khoảng 0,8 m qua phần đất của
chị (bà T1) trồng cây cối trên phần đất lấn chiếm. Năm 2021, (P) nhận
chuyển nhượng lại quyền sử dụng đất số CU 450036, thửa đất số 686 (cũ là thửa số
92), tờ bản đồ số 39, tổng diện tích 3.392,1 m
2
của bà T1 đo đạc lại toàn
bộ diện tích. Sau khi nhận chuyển nhượng đất, yêu cầu Nguyễn Thị Kim L
phải tháo, dỡ toàn bộ cây trồng bờ rào để trả phần đất tự ý lần chiếm, nhưng
L không đồng ý. Nay, khởi kiện đnghị Tòa án buộc Nguyễn Thị Kim L
phải tháo, dỡ toàn bộ cây trồng bờ rào để trả lại phần đất 34,0 m
2
theo kết quả
đo đạc của cơ quan chuyên môn.
Bị đơn, bà Nguyễn Thị Kim L trình bày:
Mẹ Nguyễn Thị G nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bà
Trần Thị L1 với điện tích 960 m
2
, trong đó có 810 m
2
đất trồng cây lâu năm và 150
m
2
đất ở, thuộc thửa đất số 92 a, tờ bản đồ 39, với kích thước chiều rộng theo tỉnh
lộ 1 là 12 m, chiều sâu 80 m, tại thôn H, xã E, huyện B. Việc chuyển nhượng được
lập bằng văn bản (có xác nhận của Ủy ban nhân dân E). Sau khi nhận chuyển
nhượng, mẹ bà (Gần) xây nhà cấp 4, trồng các cây lâu năm và dựng hàng rào xung
quang thửa đất nhận chuyển nhượng. Tại thời điểm dựng hàng rào B40 trồng
các cây giáp ranh với thửa đất số 686 (số cũ 92), tờ bản đồ 39, thuộc quyền quản lý
sử dụng của bà Trương Nguyễn Quỳnh T1, thì bà T1 không có ý kiến hay phản đối
việc mẹ bà dựng bờ rào và trồng cây giáp ranh với thửa đất của T1.
Đến năm 2009, mẹ tặng cho lại toàn bộ quyền sử dụng đất toàn bộ tài
sản trên đất cho đã sử dụng ổn định từ thời điểm đó cho đến nay. Từ lúc
mẹ nhận chuyển nhượng đến thời điểm được tặng cho quyền sử dụng đất
cho đến nay, thửa đất vẫn sử dụng ổn định, không tranh chấp với ai. Ranh giới trên
thực tế giáp ranh với thửa đất số 686 (số 92), tờ bản đồ 39 vẫn giữ nguyên,
không sự lấn chiếm hay thay đổi hiện trạng gì. Ngày 04-3-2021, bà Trương
Nguyễn Kim P mới nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi nhận chuyển
nhượng, P đã xem xét ngoài thực địa, đồng ý nhận chuyển nhượng làm thủ
tục chuyển nhượng. Nay, Trương Nguyễn Kim P khởi kiện về việc (L) lấn
chiếm đất diện tích 34 m
2
theo yêu cầu đo Trích lục thửa đất của P là không
căn cứ; đồng thời, xâm phạm đến quyền lợi ích hợp pháp của bà. Vì vậy, đề
nghị Tòa án không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà P để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của bà.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Trương Nguyễn Quỳnh T1 trình
bày:
Ngày 19-01-2021, bà (Trâm) có sang nhượng lại thửa đất số 686 (số cũ 92), tờ
bản đồ số 39, diện tích 3.392,1 m
2
tại thôn H, E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk cho
Trương Nguyễn Kim P. đã bàn giao đất theo hiện trạng quyền sử dụng đất
được Nhà nước công nhận (Mặt tiền tỉnh lộ 1 chiều dài 17 m). Hiện nay,
3
Nguyễn Thị Kim L kng giao trả phần đất lấn chiếm, do đó đề nghị Tòa án
giải quyết theo quy định của pháp luật.
(Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ
xác định trên phần đất tranh chấp gồm các tài sản: Bờ rào B40 trụ tông rào
dọc theo đất mở rộng tbờ tường rào cố định, rào sâu ra hết phần đất của
Nguyễn Thị Kim L. Trên đất 01 hầm rút xây thành tấm đan đậy lại, 03 cây
cau vua, 01cây khế, 01 cây điều thường, 01cây hoa giấy, 01 cây thần tài một số
loại cây hoa khác.
Tại Biên bản định giá tài sản ngày 19-8-2022, Hội đồng định giá tài sản xác
định: Đất, cây trồng và vật kiến trúc khác có tổng giá trị là 141.980.300 đồng; diện
tích đất tranh chấp 34,0 m
2
có giá thị trường là 135.000.000 đồng).
Tại Bản án dân sự thẩm số 24/2022/DS-ST ngày 17-12-2022, Tòa án nhân
dân huyện Buôn Đôn quyết định:
Căn cứ khoản 9 Điều 26, Điều 147, Điều 186, Điều 187, Điều 188, Điều 227
Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 158, khoản 2 Điều 164 của Bộ luật
dân sự năm 2015; các Điều 100, 166 203 của Luật Đất đai năm 2013; khoản 2,
khoản 5 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản và s
dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Trương Nguyễn Kim P.
1. Buộc bà Nguyễn Thị Kim L trả lại diện tích đất lấn chiếm 34,0 m
2
của thửa
đất số 686, tờ bản đồ số 39, tại thôn H, xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk cho bà Trương
Nguyễn Kim P (Chi tiết phần đất phải trả theo Trích lục đồ địa chính số
1557/TL-CVBĐ-KTĐC ngày 23-6-2022 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai
huyện B).
2. Buộc bà Nguyễn Thị Kim L phải tháo đỡ, di dời bờ rào B40 trụ bê tông rào
dọc theo đất mở rộng từ bờ tường rào cố định rào sâu ra hết phần đất của bà
Nguyễn Thị Kim L, trên đất 01 hầm rút xây thành tấm đan đậy lại, 03 cây
cau vua, 01 cây khế, 01 cây điều thường, 01 cây hoa giấy, 01 cây thần tài một
số loại cây hoa khác trên phần đất lấn chiếm 34.0 m
2
của thửa đất số 686, tờ bản đ
số 39, tại thôn H, xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, chi phí tố tụng;
quyền, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
- Ngày 22-12-2022, bị đơn Nguyễn Thị Kim L kháng cáo, đề nghị Tòa
án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 162/2023/DS-PT ngày 20-4-2023, Tòa án
nhân dân tỉnh Đắk Lắk quyết định:
Căn cứ khoản 2 Điều 308 Điều 309 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Ngh
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
quy định về mức thu, min, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án.
4
Chấp nhận một phần đơn kháng cáo của bị đơn là bà Nguyễn Thị Kim L.
- Sửa một phần Bản án dân sự thẩm số 24/2022/DS-ST ngày 07-12-2022
của Tòa án nhân huyện B.
Căn cứ khoản 9 Điều 26, Điều 147, Điều 186, Điều 187, Điều 188, Điều 227
Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 158, khoản 2 Điêu 164 của Bộ luật
Dân sự năm 2015; các Điều 100, 166 và 203 của Luật Đất đai năm 2013, tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trương Nguyễn Kim P.
Buộc bà Nguyễn Thị Kim L phải trả lại diện tích đất lấn chiếm 34 m
2
của thửa
đất số 686, tbản đồ số 39, tại thôn H, E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk và phải tháo
dỡ, di dời hàng rào lưới B40 rào dọc theo lô đất mở rộng từ bờ rào cố định rào sâu
ra hết phần đất của Nguyễn Thị Kim L cho Trương Nguyễn Kim P (Chi tiết
theo Trích lục hồ địa chính số 1556/TL-CNBĐ-KTĐC ngày 23-6-2022 của Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đại huyện B).
2. Bác một phần yêu cầu khởi kiện của Trương Nguyễn Kim P về buộc
Nguyễn Thị Kim L tháo, dỡ toàn bộ cây trồng, hầm rút trên diện tích đất lấn chiếm
34 m
2
của thửa đất số 686, tbản đồ số 39 tại thôn H, E, huyện B, tỉnh Đắk
Lắk.
Giao các tài sản gồm: 01 hầm rút xây thành có tấm đan đậy lại, 03 cây cau
vua, 01 cây khế, 01cây điều thường, 01 cây hoa giấy, 01 cây thần tài và một số loại
cây hoa khác trên diện tích đất lấn chiếm 34 m
2
của thửa đất số 686, tờ bản đồ số
39 tại thôn H, xã E, huyện B cho bà Trương Nguyễn Kim P được quyền sở hữu.
3. Buộc Trương Nguyễn Kim P phải thanh toán giá trị các tài sản, cây
trồng gắn liền với diện tích đất lấn chiếm 34 m
2
và hỗ trợ di dời hàng rào lưới B40
tại thửa đất số 686, tờ bản đồ số 39 tại thôn H, xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk số tiền
tổng cộng 6.980.300 đồng (sáu triệu chín trăm tám mươi nghìn ba trăm đồng)
cho bà Nguyễn Thị Kim L.
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí, chi ptố tụng,
quyền và nghĩa vụ thi hành án theo quy định của pháp luật.
Ngày 27-7-2023, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng nhận được Đơn của
Trương Nguyễn Kim L2 đề nghị xem xét theo thủ tục tái thẩm đối với Bản án
dân sự phúc thẩm số 162/2023/DS-PT ngày 20-4-2023 của Tòa án nhân dân tỉnh
Đắk Lắk; ngày 21-12-2023 L2 tiếp tục Đơn đề nghị xem xét theo thủ tục tái
thẩm đối với bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.
Ti Quyết định kháng ngh tái thm s 13/KN-DS ngày 10-5-2024 ca
Chánh án Tòa án nhân nhân dân cp cao ti Đà Nng đề ngh Ủy ban Thẩm phán
Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xtái thẩm, hủy toàn bộ Bản án dân sự
phúc thẩm số 162/2023/DS-PT ngày 20-4-2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk
Lắk Bản án dân sự thẩm số 24/2022/DS-ST ngày 17-12-2022 của Tòa án
nhân dân huyện Buôn Đôn, chuyển hồ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Buôn
Đôn để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm theo đúng quy định của pháp luật.
- Ti phiên tòa tái thm, đại din Vin kim sát nhân dân cp cao ti Đà
Nng đề ngh y ban Thm phán Tòa án nhân dân cp cao ti Đà Nng chp
5
nhn toàn b Quyết định kháng ngh tái thm s 13/KN-DS ngày 10-5-2024 ca
Chánh án Tòa án nhân nhân dân cp cao ti Đà Nng.
NHN ĐỊNH CA TÒA ÁN:
[1]. Xem xét các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, thấy rằng:
Diện tích đất của nguyên đơn của bị đơn đều nguồn gốc của
Nguyễn Thị L3, bà L3 được Ủy ban nhân dân huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số 218875 QSDĐ/RH ngày 21-8-2000, gồm thửa đất số 92 có diện tích
3.862 m
2
thửa số 64 diện tích 2.548 m
2
. Năm 2003, L3 tách thửa đất số
92, tờ bản đồ số 39 thành 02 thửa: (1) thửa đất số 92 có diện tích 3.392,1 m
2
và (2)
thửa đất số 92 a có diện tích 960 m
2
.
[2]. Theo trình bày của nguyên đơn (bà Trương Nguyễn Kim P) của người
quyền lợi, nghĩa vliên quan (bà Trương Nguyễn Quỳnh T1), thì nguồn gốc
thửa đất T1 chuyển nhượng lại cho P do trước đó T1 nhận chuyển
nhượng của bà Trần Thị L1. Tại Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
21-8-2000, thể hiện: Bà Trần Thị L1 chuyển nhượng cho bà Trương Nguyễn
Quỳnh T1 diện tích 5.420 m
2
đất, tại thửa đất số 92 và thửa đất số 64, tờ bản đồ số
39, tại Mục 4 của Hợp đồng thể hiện: “Các cam kết khác: Mặt tiền tỉnh lộ ngang
17 m”, trong hợp đồng chuyển nhượng không ghi tứ cận, không biên bản bàn
giao thực địa và không có công chứng, chứng thực. Theo Hợp đồng chuyển
nhượng này, thì bà T1 nhận chuyển nhượng diện tích 5.420 m
2
đất và mặt tiền tỉnh
lộ 1 ghi ngang 17 m, nhưng ngày 10-9-2020, T1 li được Ủy ban nhân dân
huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CU 450036 đối với thửa đất
số 686 (số 92 cũ), tbản đồ số 39, chdiện tích 3.392,1 m
2
, nhưng chiều rộng
mặt tiền theo tỉnh lộ 1 vẫn là 17 m; đến ngày 04-03-2021, đã được điều chỉnh biến
động tại Trang 04 cho nguyên đơn là bà Trương Nguyễn Kim P.
Như vậy, sai lệch về diện tích đất, nhưng Tòa án cấp thẩm Tòa án
cấp phúc thẩm không thu thập hồ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của
Trương Nguyễn Quỳnh T1 để xác định do T1 được cấp quyền sử
dụng đất có diện tích ít hơn so với diện tích nhận chuyển nhượng; sở nào T1
được cấp diện tích đất 3.392,1 m
2
; sao tổng diện tích được cấp theo Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất ít hơn so với diện tích ghi trong hợp đồng nhận chuyển
nhượng, nhưng chiều rộng mặt tiền theo tỉnh lộ 1 vẫn đủ 17 m; khi cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho T1 Biên bản đo đạc thực địa, có giáp ranh tứ
cận của các hộ liền kề không.
[3]. Ngày 04-08-2003, Trần Thị L1 chuyển nhượng cho mẹ ruột
Nguyễn Thị G diện tích 960 m
2
đất tại thửa đất s92 (cũ), tờ bản đsố 39 cũng
không ghi chiều dài các cạnh tứ cận. Sau đó, G được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số AP 140687 đối với thửa đất số 92 a, tờ bản đồ số 39, diện
tích 960 m
2
, chiều rộng theo tỉnh lộ 1 dài 12 m. Ngày 16-11-2009, bà G tặng cho bị
đơn Nguyễn Thị Kim L toàn bộ diện tích đất nêu trên. Theo trình bày của bị
đơn (bà L), thì từ lúc nhận chuyển nhượng đến thời điểm L được tặng cho
quyền sử dụng đất cho đến nay, thửa đất sử dụng ổn định, không có tranh chấp với
6
ai, ranh giới trên thực tế giáp ranh với thửa đất số 686 (số 92), tờ bản đồ số 39
vẫn giữ nguyên, không thay đổi hiện trạng; ngày 04-3-2021, nguyên đơn (bà P)
mới nhận chuyển nhượng đất, khi nhận chuyển nhượng bà P đã được T1 bàn
giao đất ngoài thực địa và đồng ý nhận chuyển nhượng.
Tòa án cấp phúc thẩm chỉ căn cứ vào kết quả xem xét thẩm định tại chỗ ngày
18-02-2022 của Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn, thể hiện: “Đối với đất của
L và bà P theo đường tỉnh lộ 1, có tổng chiều dài 28,50 m. Phần đất bà L từ nhà
hàng T2 qua phía bờ rào B40 giáp nhà P chiều dài 12,30 m. Phần đất P
là 16,20 m. Phía sau đuôi lô đất của bà L từ nhà hàng T2 qua là 12,75 m” và Trích
lục bản đồ địa chính số 1556 ngày 23-6-2022 của Chi nhánh Văn phòng đăng
đất đai huyện B thể hiện: “Thửa đất số 686, tờ bản đồ số 39, diện ch 1630,0 m
2
,
chiều ngang theo tỉnh lộ 1 16,20 m”, từ đó giữ nguyên quyết định của Tòa án
cấp thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Trương Nguyễn Kim P, buộc
Nguyễn Thị Kim L trả lại diện tích 34 m
2
của
thửa đất số 686, tờ bản đồ số 39, tại
thôn P, E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk chưa làm sự sai lệch về diện tích đất
như phân tích tại mục [2.1] là chưa đủ căn cứ vững chắc.
[4]. Bà L có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục tái thẩm và đồng thời xuất trình
chứng cứ mới là Trích lục bản đồ địa chính do Văn png đăng ký đt đai huyện B
thực hiện ngày 17-5-2023. Theo Trích lục này, thì diện tích đất thực tế L đang
sử dụng 949 m
2
, thiếu 11 m
2
so với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được
cấp
(chiều ngang theo tỉnh lộ 1 11,20 m) chiều ngang bao gồm cả phần đang
tranh chấp mới đủ 12 m theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp.
Xem xét, đối chiếu Kết quả xem xét thẩm định tại chỗ của Tòa án nhân dân
huyện Buôn Đôn với Trích lục bn đồ địa chính số 1556 ngày 23-6-2022 trích đo
diện tích đất của thửa đất số 686 (số cũ 92) của nguyên đơn (bà P) và Trích lục bản
đồ địa chính ngày 17-5-2023 trích đo diện tích đất của bị đơn (bà L), thì các số liệu
là khác nhau, do đó cần xem xét thẩm định, trích đo lại cả diện tích đất của bà P
bà L để xác định bị đơn (L) có lấn chiếm đất của nguyên đơn không.
Xét thấy, Trích lục bản đồ địa chính do Văn phòng đăng đất đai huyện B
thực hiện ngày 17-5-2023, do bị đơn (bà L) cung cấp tình tiết mới làm thay đổi
bản nội dung ván. Đbảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương
sự, cần kháng nghị theo thủ tục tái thẩm, hủy bản án dân sự phúc thẩm bản án
dân sự sơ thẩm để giải quyết sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Vì các l trên;
QUYT ĐỊNH:
Căn c vào Điu 351; Điu 352 và Điu 356, Điu 357 B lut t tng dân
s;
1. Chp nhn Quyết định kháng ngh tái thm s 13/KN-DS ngày 10-5-2024
ca Chánh án Tòa án nhân nhân dân cp cao ti Đà Nng, hủy toàn bộ hủy toàn
bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 162/2023/DS-PT ngày 20-4-2023 của Tòa án nhân
7
dân tỉnh Đắk Lắk Bản án dân sự thẩm số 24/2022/DS-ST ngày 17-12-2022
của Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn.
2. Giao hồ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk để
giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm, đúng quy định của pháp luật.
Quyết định tái thm có hiu lc pháp lut k t ngày Hi đồng tái thm ra
quyết định.
Nơi nhận:
- Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học-TANDTC;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk;
- Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk;
- Chi cục THADS huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk;
- Các đương sự (theo địa chỉ);
- Lưu: Phòng HCTP; Phòng GĐKT DS-KDTM-LĐ và
hồ sơ vụ án.
TM. ỦY BAN THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Văn Tào
Tải về
Quyết định số 44/2024/TT-DS Quyết định số 44/2024/TT-DS

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Quyết định số 44/2024/TT-DS Quyết định số 44/2024/TT-DS

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Quyết định cùng lĩnh vực

Quyết định mới nhất