Quyết định số 40/2019/HS-GĐT ngày 07/10/2019 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Quyết định số 40/2019/HS-GĐT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Quyết định 40/2019/HS-GĐT
Tên Quyết định: | Quyết định số 40/2019/HS-GĐT ngày 07/10/2019 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
---|---|
Tội danh: | |
Cấp xét xử: | Giám đốc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
Số hiệu: | 40/2019/HS-GĐT |
Loại văn bản: | Quyết định |
Ngày ban hành: | 07/10/2019 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | 1. Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 84/QĐ-VC2 ngày 03/9/2019 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng. 2. Hủy Bản án hình sự phúc thẩm số 108/2019/HSPT ngày 14/3/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk và Bản án hình sự sơ thẩm số 308/2018/HS-ST ngày 20/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk để điều tra lại theo quy định của pháp luật. 3. Chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng để điều tra lại theo thủ tục chung. |
Tóm tắt Quyết định
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
ỦY BAN THẨM PHÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: ông Trần Minh Tuấn.
Các thành viên Hội đồng giám đốc thẩm: ông Lê Tự, ông Trương Minh Tuấn
- Thư ký phiên tòa: ông Phan Nguyễn Thanh Toàn - Thư ký Tòa án.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên tòa:
Ông Lê Ra - Kiểm sát viên.
Ngày 07 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng
mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án hình sự đối với bị cáo:
Nguyễn Xuân T (tên gọi khác: Bé), sinh năm 1976; trú tại: tổ dân phố 3, phường
TH, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: làm nông; trình độ văn hóa: 9/12; con ông
Nguyễn T1 (chết) và bà Ngô Thị N; vợ là Bùi Thị L, có 02 con, lớn sinh năm 2000, nhỏ
sinh năm 2007; tiền án, tiền sự: không.
Nhân thân: ngày 16/02/2000, bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện K,
tỉnh Đắk Lắk khởi tố về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại khoản 1 Điều
104 Bộ luật hình sự năm 1999. Ngày 20/4/2000, Viện kiểm sát nhân dân huyện K,
tỉnh Đắk Lắk ra quyết định đình chỉ vụ án, đình chỉ bị can do bị hại rút yêu cầu
khởi tố.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/11/2014 đến ngày 09/02/2015 được
thay đổi biện pháp ngân chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.
Người bị hại: Ông Dương Hiển Th, sinh năm 1973; trú tại: Tổ dân phố 1, phường
TH, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
Người làm chứng:
1/ Ông Lê Công S, sinh năm 1968
2/ Ông Nguyễn Phi H, sinh năm 1979
3/ Ông Huỳnh Văn T2, sinh năm 1977
4/ Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1931
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
Quyết định số: 40/2019/HS-GĐT
Ngày 07 tháng 10 năm 2019
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
Cùng trú tại: Tổ dân phố 4, phường TH, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
5/ Ông Hồ Văn H1, sinh năm 1977; trú tại: Thôn 10, xã Hòa Thắng, thành phố B,
tỉnh Đắk Lắk.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Hồ Văn H1: Ông Tạ Quang
T3 – Luật sư Văn phòng Luật sư T.H.T thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đắk Lắk.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 21/10/2014, Nguyễn Xuân T đến nhà anh
Huỳnh Văn T2 ở tổ dân phố 4, phường TH, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk để dự tiệc
cưới. Tại đây, T qua bàn anh Dương Hiển Th mời anh Th cùng lên sân khấu nhảy,
anh Th không đồng ý dẫn đến mâu thuẫn, lời qua tiếng lại nhưng được mọi người
can ngăn. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, T được anh Võ Ngọc Th1 dùng xe máy
chở về nhà, khi đi về được khoảng 50 mét thì T xuống xe, đi bộ quay trở lại nhà
anh T2. Khi đến cổng, thấy anh Dương Hiển Th từ trong sân nhà anh T2 đi ra, T
xông đến dùng cả hai tay đấm hai cái trúng vào vùng mặt anh Th, làm anh Th ngã
xuống đất rồi T bỏ về nhà. Ngày 22/10/2014, anh Dương Hiển Th đến Bệnh viện
đa khoa tỉnh Đắk Lắk để điều trị, đến ngày 03/11/2014 thì xuất viện.
Tại Kết luận pháp y thương tích số 1100/PY-TgT ngày 30/10/2014, Trung tâm
giám định pháp y tỉnh Đắk Lắk kết luận anh Dương Hiển Th bị đa chấn thương, gãy
xương chính mũi, tỷ lệ tổn thương cơ thể 15%. Tổn thương trên được tác động bằng
ngoại lực cứng, tày.
Ngoài ra, theo lời khai của anh Hồ Văn H1 và Dương Hiển Th cũng tại cổng nhà
anh Huỳnh Văn T2, ngay trước khi T dùng tay đánh anh Th gây thương tích thì T đã
dùng tay đánh anh H1 gây tổn thương cơ thể với tỷ lệ 29%. Quá trình điều tra, truy tố,
xét xử Nguyễn Xuân T không thừa nhận hành vi gây thương tích đối với anh H1, đồng
thời không có nhân chứng khách quan nào chứng kiến việc T gây thương tích cho anh
H1 nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã tách vụ án hình sự để tiếp
tục điều tra, xử lý sau đối với vụ việc trên.
Tại Bản cáo trạng số 90/KSĐT-HS ngày 25/02/2015, Viện kiểm sát nhân dân
thành phố B đã truy tố bị cáo Nguyễn Xuân T về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản
1 Điều 104 Bộ luật hình sự.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 105/2015/HSST ngày 30/3/2015, Tòa án
nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk: áp dụng khoản 1 Điều 104; điểm b, h, p
khoản 1, khoản 2 Điều 46; khoản 1, khoản 2 Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999,
tuyên phạt bị cáo Nguyễn Xuân T 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo. Bị cáo
được khấu trừ thời gian bắt tạm giam 12/11/2014 đến 09/02/2015 (03 tháng), thời
gian còn phải chấp hành là 09 tháng. Thời gian thử thách là 01 năm 06 tháng tính
từ ngày tuyên án sơ thẩm.
3
Ngày 09/3/2016, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng ban hành
Quyết định kháng nghị số 07/2016/KN-HS đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án
nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án hình sự sơ thẩm
số 105/2015/HSST ngày 30/3/2015 của Tòa án nhân dân thành phố B để điều tra
lại.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 01/2017/HS-GĐT ngày 11/12/2017 của
Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng: áp dụng khoản 3 Điều 285, Điều 287 và
Điều 289 Bộ luật tố tụng hình sự hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 105/2015/HSST
ngày 30/3/2015 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk để điều tra lại theo
đúng quy định của pháp luật.
Tại Bản cáo trạng số 298/CT-VKSTP.BMT ngày 19/10/2018, Viện kiểm sát
nhân dân thành phố B đã truy tố Nguyễn Xuân T về tội “Cố ý gây thương tích” theo
khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 308/2018/HS-ST ngày 20/11/2018, Tòa án
nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk: áp dụng khoản 1 Điều 104; điểm b, h, p
khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999, tuyên phạt bị cáo Nguyễn
Xuân T 09 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù
tính từ ngày bắt thi hành án, bị cáo được khấu trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam trước
đó từ ngày 12/11/2014 đến ngày 09/02/2015.
Trong thời hạn luật định, bị cáo Nguyễn Xuân T kháng cáo xin hưởng án
treo; anh Hồ Văn H1 kháng cáo cho rằng thương tích 29% của mình là do bị cáo
Nguyễn Xuân T gây ra, cần xác định tư cách tham gia tố tụng của mình là người bị
hại trong vụ án.
Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 108/2019/HSPT ngày 14/3/2019, Tòa án
nhân dân tỉnh Đắk Lắk tuyên không chấp nhận kháng cáo. Áp dụng khoản 1 Điều
104; điểm b, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt bị
cáo Nguyễn Xuân T 09 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”
Ngày 04/4/2019, anh Hồ Văn H1 có đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm.
Tại Quyết định kháng nghị số 84/QĐ-VC2 ngày 03/9/2019, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân
cấp cao tại Đà Nẵng xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hủy Bản án hình sự phúc
thẩm số 108/2019/HSPT ngày 14/3/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk và Bản
án hình sự sơ thẩm số 308/2018/HS-ST ngày 20/11/2018 của Tòa án nhân dân thành
phố B để điều tra, xét xử lại theo hướng nhập vụ án này với vụ án đã tách theo quyết
định tách vụ án hình sự số 11 ngày 18/9/2018 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an
thành phố B để xử lý hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Xuân T đối với anh
4
Dương Hiển Th và anh Hồ Văn H1 trong cùng một vụ án; áp dụng tình tiết định
khung “Có tính chất côn đồ” và tăng hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Xuân T.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng
đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng chấp nhận Quyết
định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo Nguyễn
Xuân T đã khai nhận hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của
người làm chứng và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, nên có đủ cơ sở
để xác định chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt trong cuộc sống thường ngày bị cáo T đã
dùng tay đánh 02 cái liên tiếp vào mặt anh Dương Hiển Th làm anh Th bị đa thương,
vỡ xương chính mũi với tỷ lệ tổn thương cơ thể 15%. Do đó, Tòa án nhân dân cấp sơ
thẩm, cấp phúc thẩm xét xử bị cáo T về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại
Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999 là có căn cứ, đúng tội danh.
[2] Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm áp dụng khoản 1 Điều
104 Bộ luật hình sự năm 1999 để xử phạt bị cáo 09 tháng tù là không đúng khung
hình phạt. Bởi lẽ, sau khi phát sinh mâu thuẫn với anh Th và được mọi người can
ngăn đưa về nhà nhưng bị cáo vẫn quay trở lại nhà anh T2 rồi bất ngờ lao vào dùng
tay đánh 02 cái liên tiếp trúng mặt anh Th rồi bỏ chạy là có tính chất côn đồ, được
quy định tại điểm i khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999, đồng thời anh Th
bị tổn thương cơ thể với tỷ lệ 15% nên hành vi phạm tội của T thuộc khoản 2 Điều
104 Bộ luật hình sự năm 1999. Xét nhân thân bị cáo T không tốt, năm 2000 đã bị
Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện K, tỉnh Đắk Lắk khởi tố, điều tra về tội
“Cố ý gây thương tích” nhưng sau đó người bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố hình sự
đình chỉ điều tra. Do đó, Tòa án hai cấp áp dụng khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự
năm 1999 xử phạt bị cáo T 09 tháng tù là nhẹ và không đúng khung hình phạt.
[3] Mặt khác, sau khi xét xử sơ thẩm anh Hồ Văn H1 là người có quyền lợi
và nghĩa vụ liên quan trong vụ án có đơn kháng cáo với nội dung tổn thương cơ thể
với tỷ lệ 29% của mình là do bị cáo Nguyễn Xuân T gây ra, cần xác định tư cách
tham gia tố tụng của anh là người bị hại trong vụ án. Tại Biên bản ghi lời khai
ngày 26/02/2018, anh H1 khai: “Tôi với anh Th đi bộ từ trong nhà anh T2 ra đến
cổng thì Nguyễn Xuân T từ ngoài chạy vào định đánh anh Dương Hiển Th. Tôi can
ngăn thì T lao vào đánh tôi trúng mặt và đầu làm tôi ngã xuống đất ngất xủi tại
chỗ” (BL: 191-192). Lời khai trên của anh H1 phù hợp với lời khai của những
người làm chứng Nguyễn Thị Hồng Th2 (BL: 80-81; 84-85; 219-220), Hồ Văn
Quang (BL: 82-83), Hồ Tẩu (BL: 212-213), Nguyễn Thị Ngọc (BL: 214-215). Hồ
sơ thể hiện, sau khi gây thương tích cho anh H1 thì bị cáo có đến bệnh viện thăm
5
anh H1 đồng thời thừa nhận với vợ anh H1 là chị Nguyễn Thị Hồng Th2 mình là
người đánh anh H1 và bồi thường số tiền 20.000.000 đồng. Sau đó, anh trai của T
là ông Nguyễn Đức T4 tiếp tục bồi thường 20.000.000 đồng và đề nghị gia đình
anh H1 làm đơn bãi nại. Do đó, có đủ cơ sở để xác định bị cáo Nguyễn Xuân T là
người đánh anh H1 gây ra tỷ lệ tổn thương cơ thể cho anh H1 là 29% nhưng các cơ
quan tiến hành tố tụng thành phố B đã tách, không xử lý hành vi gây thương tích
của T đối với anh H1 trong cùng một vụ án theo Quyết định tách vụ án hình sự số
11 ngày 18/9/2018 là có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật, làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của anh H1, đồng thời
không đánh giá đầy đủ tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội mà bị cáo
T đã gây ra.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 382, khoản 3 Điều 388 và Điều 391 của Bộ luật Tố tụng
hình sự;
1. Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 84/QĐ-VC2 ngày
03/9/2019 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.
2. Hủy Bản án hình sự phúc thẩm số 108/2019/HSPT ngày 14/3/2019 của Tòa
án nhân dân tỉnh Đắk Lắk và Bản án hình sự sơ thẩm số 308/2018/HS-ST ngày
20/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk để điều tra lại theo quy
định của pháp luật.
3. Chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng để điều
tra lại theo thủ tục chung.
4. Quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày
ra quyết định.
Nơi nhận:
- VKSNDCC tại Đà Nẵng;
(02 bản, kèm hồ sơ vụ án);
- TANDTC - Vụ I;
- TAND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND TP. B;
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- VKSND TP. B;
- Công an TP. B;
- Chi cục THA dân sự TP. B;
- Bị cáo (theo địa chỉ nêu trên);
- Lưu: Phòng GĐKT I (03 bản), HCTP, LTHS.
TM. ỦY BAN THẨM PHÁN
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Trần Minh Tuấn
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
2
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
3
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
4
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
5
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
6
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
7
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
8
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
9
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
10
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
11
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
12
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
13
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
14
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
15
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
16
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
17
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
18
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
19
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
20
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm