Quyết định số 292/2024/QĐTT-DS ngày 26/12/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Quyết định số 292/2024/QĐTT-DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Quyết định số 292/2024/QĐTT-DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Quyết định 292/2024/QĐTT-DS
Tên Quyết định: | Quyết định số 292/2024/QĐTT-DS ngày 26/12/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Tái thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 292/2024/QĐTT-DS |
Loại văn bản: | Quyết định |
Ngày ban hành: | 26/12/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Chấp nhận Quyết định kháng nghị tái thẩm số 55/2024/KN-DS ngày 26/9/2024 của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 177/2014/DS-PT ngày 12/6/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An và Bản án dân sự sơ thẩm số 36/2011/DS-ST ngày 30/6/2011 của Tòa án nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An. |
Tóm tắt Quyết định
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Quyết định tái thẩm
Số: 292/2024/DS-TT
Ngày: 26/12/2024
V/v: “Tranh chấp quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
ỦY BAN THẨM PHÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Thành phần Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Võ Văn Khoa
Các Thẩm phán: Ông Võ Văn Cường
Ông Trần Văn Mười
Thư ký phiên tòa: Bà Trương Thị Cẩm Linh - Thẩm tra viên.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Bà Trần Thị Huệ - Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa tái thẩm xét xử vụ án dân sự về “Tranh chấp
quyền sử dụng đất” giữa:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1934; Địa chỉ: Ấp A, xã B,
huyện B, tỉnh Long An.
2. Bị đơn:
2.1. Ông Nguyễn Văn N1, sinh năm 1935 (chết ngày 03/10/2011)
Người thừa kế quyền và nghĩa vụ của ông N1: Các ông, bà Nguyễn Thị T,
Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Thị Ngọc A, Nguyễn Thị Ngọc H, Nguyễn Hồng V,
Nguyễn Văn H1, Nguyễn Văn H2; Cùng địa chỉ: Ấp A, xã B, huyện B, tỉnh Long
An.
2.2. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1946; Địa chỉ: Ấp A, xã B, huyện B, tỉnh
Long An.
2
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1972.
3.2. Bà Huỳnh Thị Kim N2, sinh năm 1973.
3.3. Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1931.
Cùng địa chỉ: Ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Long An.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn là bà Nguyễn Thị N trình bày: Cha của bà N là cụ Nguyễn Hữu
T1 (chết năm 1992), mẹ là cụ Giả Thị X (chết khi bà N được 03 tuổi) sinh được
03 người con gồm: ông Nguyễn Văn L, ông Nguyễn Văn N1 và bà Nguyễn Thị
N. Ông Nguyễn Văn N1 có vợ là bà Nguyễn Thị T, con trai là ông Nguyễn Văn
Đ và con dâu là bà Huỳnh Thị Kim N2. Khi cha mẹ bà N còn sống được bên ngoại
cho một phần đất tại xã B, huyện B, tỉnh Long An. Cụ Nguyễn Hữu T1 và cụ Giả
Thị X chết thì ông Nguyễn Văn L kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất tại các thửa 592, 616, 620, 122 và 123, ông N1 kê khai và được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất tại các thửa 124, 125. Năm 2007, ông L sang tên
quyền sử dụng đất thửa 123 có diện tích 1.288m
2
(đo đạc thực tế 809,8m
2
) cho bà
N.
Quá trình sử dụng đất: Sau giải phóng, anh em ông L cất 01 căn nhà cho dì
ruột là cụ Giả Thị H3 ở trên thửa 123. Năm 1979, cụ H3 qua đời thì ông S về ở
đến khi chết (năm 1992) và không ai quản lý nhưng bà N có trồng vài cây xoài
hiện chỉ còn một cây. Năm 2006, ông Nguyễn Văn N1 đến cất tạm nhà cho con ở
làm phát sinh tranh chấp từ năm 2007. Hiện nay căn nhà đã sập; bà N yêu cầu ông
N1 trả lại thửa đất trên.
Bị đơn là bà Nguyễn Thị T trình bày: Về quan hệ huyết thống bà Thông
thống N3 như lời trình bày của bà N nêu trên. Khi cha mẹ chồng còn sống có tạo
dựng khoảng 01 ha đất hiện ông L đang đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất 05 thửa trong đó có thửa 123 diện tích 1.288m
2
, ông N1 đứng tên quyền sử
dụng thửa 124 có diện tích 1.632m
2
và thửa 125 có diện tích 530m
2
. Năm 2007,
ông L chuyển quyền sử dụng thửa 123 cho bà N trong khi ông N1 là người quản
lý, sử dụng. Do đó, bà T không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà N.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Văn L trình bày:
Thửa 123 là của ông, bà ngoại để lại cho dì ruột là cụ Giả Thị H3, khi cụ
H3 chết thì cha của ông là cụ T1 quản lý đến cuối đời. Khi cha ông L còn sống
nói cho ông L hai thửa 122, 123 và ông N1 hai thửa 124, 125 nên cả hai sau đó đi
đăng ký và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1997-1998. Trong
thời gian này ông N1 có cất nhà tạm trên thửa 123 để cho con ở do đất không ai
3
quản lý. Đến năm 2007, ông L tách quyền sử dụng thửa 123 cho bà N thì phát
sinh tranh chấp.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ông Nguyễn Văn Đ và vợ là bà
Huỳnh Thị Kim N2 trình bày: Ông, bà xác lập hôn nhân vào năm 1993 và được
cha mẹ cất nhà ở riêng trên thửa 123 vào năm 1994-1999. Năm 2000 do điều kiện
làm ăn phải đi nơi khác sống đến năm 2004 mới quay về sống trên căn nhà nêu
trên thì bà N nói là đất của cha mẹ không cho ở. Ông Đ, bà N2 không đồng ý với
yêu cầu khởi kiện của nhà N.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 36/2011/DS-ST ngày 30/6/2011, Tòa án
nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An đã quyết định:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị N.
Buộc ông Nguyễn Văn N1 và bà Nguyễn Thị T phải giao trả cho bà Nguyễn
Thị N quyền sử dụng đất thửa 123, loại đất trồng cây hàng năm khác, có diện tích
trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 1.288m
2
, diện tích đo đạc thực tế
809,8m
2
, đất hiện do bà N đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AI
602666 do Ủy ban nhân dân huyện B cấp ngày 28/6/2007, tọa lạc tại xã B, huyện
B, tỉnh Long An. Có vị trí cụ thể như sau:
- Đông giáp bờ đê dài 22,9m.
- Tây giáp thửa đất số 557 dài 20,7m.
- Nam giáp thửa đất số 122 dài 37m
- Bắc giáp đường nước công cộng dài 37,5m.
Và toàn bộ cây trồng trên đất.
Buộc bà Nguyễn Thị N phải có trách nhiệm hoàn trả cho ông Nguyễn Văn
N1 và bà Nguyễn Thị Thông S1 tiền 2.820.000 đồng là giá trị cây trồng trên đất
thửa số 123.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về nghĩa vụ thi hành án, chi
phí đo đạc định giá, án phí bà quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 03/7/2011, bà Nguyễn Thị T kháng cáo bản án sơ thẩm nêu trên yêu
cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà N và
công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp cho bà T.
Ngày 21/11/2011, bà Nguyễn Thị T có đơn xin tạm đình chỉ xét xử phúc
thẩm do bà T đang khởi kiện Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An về việc cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông L, bà N là không đúng đối tượng.
4
Ngày 08/02/2012, Tòa án nhân dân tỉnh Long An có Quyết định tạm đình
chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự số 01/2012/QĐ-PT.
Ngày 13/5/2014, bà Nguyễn Thị N có đơn đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm
đưa vụ án ra xét xử vì vụ án hành chính do bà Nguyễn Thị T khởi kiện Ủy ban
nhân dân huyện B, tỉnh Long An đã được Tòa án nhân dân tỉnh Long An giải
quyết xong ngày 26/3/2014.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 177/2014/DS-PT ngày 12/6/2014, Tòa
án nhân dân tỉnh Long An đã quyết định:
Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị T do ông Nguyễn Văn T2
đại diện tại phiên tòa.
Sửa toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 36/2011/DS-ST ngày 30 tháng 6
năm 2011 của Tòa án nhân dân huyện Bến Lức.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị N về việc tranh
chấp quyền sử dụng đất với bà Nguyễn Thị T, ông Nguyễn Văn N1 tại thửa 123,
tờ bản đồ số 9 tại xã B, huyện B, tỉnh Long An.
Vô hiệu hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Văn L với
bà Nguyễn Thị N thửa 123, tờ bản đồ số 9 tại Ấp A, xã B, huyện B, tỉnh Long An
do Ủy ban nhân dân xã B ký ngày 11/5/2007.
Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Nguyễn Thị N số AI
602666 ngày 28/6/2007 do Ủy ban nhân dân huyện B cấp thửa 123, tờ bản đồ số
9, diện tích 1.288m
2
, loại đất trồng cây hàng năm khác (HNK), địa chỉ thửa đất:
Ấp A, xã B, huyện B, tỉnh Long An.
Bà Nguyễn Thị T được toàn quyền sử dụng đăng ký kê khai để được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 123, diện tích thực tế 809,8m
2
, tờ bản
đồ số 9, tọa lạc tại xã B, huyện B, tỉnh Long An; với tứ cận:
Đông giáp bờ đê dài 22,9m.
Tây giáp thửa đất số 557 dài 20,7m.
Nam giáp thửa đất số 122 dài 37m.
Bắc giáp đường nước công cộng dài 37,5m.
Bà Nguyễn Thị T được quyền sở hữu toàn bộ cây bà trồng gắn liền trên
thửa đất 123, tờ bản đồ số 9, tọa lạc tại xã B, huyện B, tỉnh Long An.
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí theo quy định của
pháp luật.
5
Ngày 01/7/2022, bà Nguyễn Thị N có đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục
tái thẩm đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 177/2014/DS-PT ngày 12/6/2014
của Tòa án nhân dân tỉnh Long An, để giải quyết lại buộc ông Nguyễn Văn N1 và
bà Nguyễn Thị T phải giao trả cho bà N diện tích đất 1.288m
2
(đo đạc thực tế
809,8m
2
) thuộc thửa đất số 123, tờ bản đồ số 9, tọa lạc tại xã B, huyện B, tỉnh
Long An.
Tại Quyết định kháng nghị tái thẩm số 55/2024/KN-DS ngày 26/9/2024,
Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị đối
với Bản án dân sự phúc thẩm số 177/2014/DS-PT ngày 12/6/2014 của Tòa án
nhân dân tỉnh Long An về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên
đơn là bà Nguyễn Thị N với bị đơn là ông Nguyễn Văn N1, bà Nguyễn Thị T và
những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác. Đề nghị Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử giám đốc thẩm hủy toàn bộ bản án dân sự
phúc thẩm nêu trên và Bản án dân sự sơ thẩm số 36/2011/DS-ST ngày 30/6/2011
của Tòa án nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án
nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định
của pháp luật.
Tại phiên tòa tái thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh chấp nhận toàn bộ kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Bà Nguyễn Thị N khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Văn N1 và bà Nguyễn
Thị T trả lại diện tích đất 1.288m
2
(đo đạc thực tế 809,8m
2
) thuộc thửa số 123, tờ
bản đồ số 9, tọa lạc tại xã B, huyện B, tỉnh Long An. Bà N cho rằng các thửa 592,
616, 620 cùng tờ bản đồ số 6 và các thửa 122, 123, 124, 125 cùng tờ bản đồ số 9,
tọa lạc tại xã B, huyện B, tỉnh Long An có nguồn gốc là của cha mẹ. Sau khi cha
mẹ chết thì ông Nguyễn Văn L kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất; riêng 02 thửa 124, 125 ông Nguyễn Văn N1 kê khai và được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2007, ông L sang tên quyền sử dụng đất thửa
123 cho bà N, nhưng vợ chồng ông N1 lại cất nhà cho con ông N1 ở trên thửa đất
này.
[2] Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 36/2011/DS-ST ngày 30/6/2011, Tòa án
nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An đã xét xử chấp nhận yêu cầu của bà
Nguyễn Thị N; buộc ông Nguyễn Văn N1 và bà Nguyễn Thị T phải giao trả cho
bà N diện tích đất 1.288m
2
(đo đạc thực tế 809,8m
2
) thuộc thửa số 123, tọa lạc tại
xã B, huyện B, tỉnh Long An và buộc bà Nguyễn Thị N hoàn trả cho ông Nguyễn
Văn N1 và bà Nguyễn Thị Thông S1 tiền 2.820.000 đồng là giá trị cây trồng trên
đất thửa số 123.
6
[3] Không đồng ý với quyết định của bản án dân sự sơ thẩm nêu trên, ngày
03/7/2011 bà Nguyễn Thị T kháng cáo; đồng thời có đơn khởi kiện vụ án hành
chính yêu cầu Tòa án tuyên hủy một phần Quyết định số 184/1998/QĐ.UB ngày
07/05/1998 của Ủy ban nhân dân huyện B về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho ông L đối với thửa số 123; hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cấp cho ông L đối với phần đất có diện tích 1.288m
2
thuộc thửa số 123;
hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp ngày 28/6/2007 cho bà N.
[4] Tại Bản án hành chính phúc thẩm số 46/2014/HC-PT ngày 26/3/2014,
Tòa án nhân dân tỉnh Long An xác định việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho ông L, bà N là không đúng quy định nên đã chấp nhận một phần yêu cầu
khởi kiện của bà T, hủy một phần Quyết định số 184/1998/QĐ.UB ngày
07/05/1998 của Ủy ban nhân dân huyện B về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho ông Nguyễn Văn L đối với thửa số 123.
[5] Căn cứ vào Bản án hành chính phúc thẩm số 46/2014/HC-PT ngày
26/3/2014, Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã xét xử tại Bản án dân sự phúc thẩm
số 177/2014/DS-PT ngày 12/6/2014 không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà
Nguyễn Thị N về việc tranh chấp quyền sử dụng đất với bà Nguyễn Thị T, ông
Nguyễn Văn N1 tại thửa 123, tờ bản đồ số 9, tọa lạc tại xã B, huyện B, tỉnh Long
An.
[6] Tuy nhiên, tại Quyết định giám đốc thẩm số 22/2019/HC-GĐT ngày
11/10/2019, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Hủy Bản án hành chính phúc thẩm số 46/2014/HC-PT ngày 26/3/2014 của Tòa
án nhân dân tỉnh Long An và Bản án hành chính sơ thẩm số 06/2013/HC-ST ngày
30/9/2013 của Tòa án nhân dân huyện Bến Lức; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân
dân tỉnh Long An xét xử sơ thẩm lại. Sau đó, tại Bản án hành chính phúc thẩm số
181/2022/HC-PT ngày 16/3/2022, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh đã quyết định: “Giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 36/2020/HC-ST
ngày 15/7/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An; đình chỉ yêu cầu khởi kiện
của bà Nguyễn Thị T về việc hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AI 602666
của bà Nguyễn Thị N do Ủy ban nhân dân huyện B cấp ngày 28/6/2007 đối với
thửa 123, diện tích 1.288m
2
, loại đất ở nông thôn, tờ bản đồ số 9, tọa lạc tại ấp
A, xã B, huyện B, tỉnh Long An; không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn
Thị T về việc yêu cầu hủy quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai
của Ủy ban nhân dân huyện B. Quyết định số 184/1998/QĐ.UB ngày 07/5/1998
của Ủy ban nhân dân huyện B về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất xã
B, đợt 4 gồm 196 hộ trong đó có ông Nguyễn Văn L là hoàn toàn đúng quy định
pháp luật. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện B cấp
7
cho ông Nguyễn Văn L số M 116984 ngày 07/5/1998 thửa số 123, tờ bản đồ số 9,
tại xã B, huyện B, tỉnh Long An là đúng quy định của pháp luật”.
[7] Như vậy, Bản án hành chính phúc thẩm số 46/2014/HC-PT ngày
26/3/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An mà Tòa án căn cứ vào đó để giải
quyết vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị
N với bị đơn là ông Nguyễn Văn N1, bà Nguyễn Thị T đã bị hủy bỏ và đã được
xét xử tại Bản án hành chính phúc thẩm số 181/2022/HC-PT ngày 16/3/2022 của
Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là tình tiết mới được
phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung bản án, quyết định mà Tòa án, các
đương sự không biết được khi Tòa án ra bản án, quyết định đó.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 356 và Điều 357 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
1. Chấp nhận Quyết định kháng nghị tái thẩm số 55/2024/KN-DS ngày
26/9/2024 của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 177/2014/DS-PT ngày
12/6/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An và Bản án dân sự sơ thẩm số
36/2011/DS-ST ngày 30/6/2011 của Tòa án nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long
An về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị
N với bị đơn là ông Nguyễn Văn N1, bà Nguyễn Thị T và những người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan khác; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Bến
Lức, tỉnh Long An để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
3. Quyết định tái thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định./.
Nơi nhận:
- Chánh án TANDCC tại TP. HCM (để b/c);
- Vụ pháp chế và quản lý khoa học TANDTC;
- VKSNDCC tại TP. HCM;
- TAND tỉnh Long An;
- TAND huyện Bến Lức, tỉnh Long An (kèm
hồ sơ vụ án);
- Chi cục THADS huyện Bến Lức, tỉnh Long An;
- Các đương sự (theo địa chỉ);
- Lưu: VP, Phòng GĐKTII, HSVA,THS (NVM).
TM. ỦY BAN THẨM PHÁN
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Võ Văn Khoa
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm
2
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm
3
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm
4
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm
5
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm
6
Ban hành: 24/03/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm
7
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm
8
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm
9
Ban hành: 17/03/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm
10
Quyết định số 17/2025/QĐPT-DS ngày 17/03/2025 của TAND tỉnh Trà Vinh về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 17/03/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm
11
Ban hành: 14/03/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm
12
Ban hành: 14/03/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm
13
Ban hành: 13/03/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm
14
Ban hành: 13/03/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm
15
Ban hành: 13/03/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm
16
Ban hành: 13/03/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm
17
Ban hành: 12/03/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm
18
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm
19
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm
20
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Tái thẩm