Quyết định số 29/2025/DS-GĐT ngày 13/06/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng hợp tác
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Quyết định số 29/2025/DS-GĐT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Quyết định số 29/2025/DS-GĐT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Quyết định 29/2025/DS-GĐT
Tên Quyết định: | Quyết định số 29/2025/DS-GĐT ngày 13/06/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng hợp tác |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng hợp tác |
Cấp xét xử: | Giám đốc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
Số hiệu: | 29/2025/DS-GĐT |
Loại văn bản: | Quyết định |
Ngày ban hành: | 13/06/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp hợp đồng góp vỗn |
Tóm tắt Quyết định
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Quyết định giám đốc thẩm
Số: 29/2025/DS - GĐT
Ngày 13/6/2025
Về“Tranh chấp hợp đồng góp vốn”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
ỦY BAN THẨM PHÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao gồm có:
Chủ tọa phiên tòa: ông Trần Huy Đức – Phó Chánh án.
Các Thẩm phán: ông Đặng Kim Nhân và ông Nguyễn Tấn Long.
- Thư ký phiên tòa: bà Trần Thị Hồng Nhạn – Thẩm tra viên của Tòa án.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên tòa:
bà Trần Thị Xuân Thanh - Kiểm sát viên.
Ngày 13 tháng 6 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng
mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự “Tranh chấp hợp đồng góp vốn”
giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Trương Tấn; địa chỉ: số 91 Nguyễn Hữu Huân,
phường Tân Lập, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
2. Bị đơn: Ông Bùi Văn Hùng; địa chỉ: số 12 Giáp Hải, phường Thắng Lợi,
thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập: Công ty cổ
phần điện Tam Long; địa chỉ: thôn 9, xã Hòa Phú, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh
Đắk Lắk; người đại diện theo pháp luật: ông Phạm Văn Phong – Chức vụ: Chủ tịch
Hội đồng quản trị.
4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
4.1 Ông Phạm Công Tài; địa chỉ: số 1073/36 Cách Mạng Tháng 8, Phường 7,
quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.
4.2 Bà Đỗ Thị Xuân; địa chỉ: số 06 Bùi Hữu Nghĩa, thành phố Buôn Ma
Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
4.3 Ông Nguyễn Duy Khánh; địa chỉ: số 85/46/2 Tạ Quang Bửu, phường
Thành Nhất, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Quá trình giải quyết vụ án, các đương sự trình bày:
Nguyên đơn là ông Nguyễn Trương Tấn cho rằng Công ty cổ phần điện Tam
Long (sau đây gọi tắt là Công ty Tam Long) được thành lập và hoạt động theo Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh do Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Đắk Lắk cấp lần
đầu ngày 21/6/2007. Ngay từ khi Công ty Tam Long được thành lập, Công ty đã
thuê ông Tấn là người trực tiếp đi khảo sát lập hồ sơ cho giai đoạn chuẩn bị đầu tư,
lập hồ sơ báo cáo xin phép đầu tư, tham gia báo cáo theo yêu cầu của các cơ quan
ban ngành cho đến khi được 02 tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông có văn bản cho phép
Công ty đầu tư vào Dự án thuỷ điện Hoà Phú, được UBND tỉnh Đắk Lắk cấp giấy
phép đầu tư. Phần công sức đóng góp này của ông Tấn được Công ty Tam Long
thống nhất mức chi trả là 1.000.000.000 đồng. Do Công ty không có tiền để chi trả
tiền công cho ông Tấn nên ngày 28/02/2010, Hội đồng quản trị Công ty (100%
thành viên) đã họp và thống nhất số tiền công sức của ông Tấn sẽ được quy ra cổ
phần của Công ty Tam Long phát hành lần đầu với giá 100.000 đồng/CP. Trước
tình hình khó khăn của Công ty nên ông Tấn đồng ý với phương án này. Ngày
15/11/2010, Đại hội đồng cổ đông Công ty Tam Long có Quyết định số 01 sửa đổi
mệnh giá cổ phần là 10.000 đồng/CP nghĩa là công sức của ông Tấn giá trị 100.000
cổ phần.
Năm 2014, Dự án nhà máy thủy điện Hòa Phú được hoàn thành. Ngày
07/5/2014, ông Bùi Văn Hùng (là chủ tịch Hội đồng quản trị đồng thời là người đại
diện theo pháp luật của Công ty Tam Long) gửi email cho ông Tấn đề nghị xác
nhận lại khoản nợ để có cơ sở thanh toán, ông Tấn xác nhận số tiền công sức là
1.000.000.000 đồng và đã được quy thành cổ phần của Công ty Tam Long.
Trên cơ sở email ngày 07/5/2014, tại bảng xác nhận công nợ phải trả từ ngày
30/4/2014 cho đến khi kết thúc dự án được xác lập ngày 07/5/2014 của Công ty
Tam Long, 03 cổ đông Bùi Văn Hùng, Phạm Công Tài và Đỗ Thị Xuân (đồng thời
là 03 thành viên Hội đồng quản trị) đã xác nhận khoản nợ 1.000.000.000 đồng của
ông Tấn theo nội dung mail trao đổi ngày 07/5/2014 sẽ do ông Hùng chịu trách
nhiệm giải quyết.
Ngày 21/5/2014, các cổ đông (ông Hùng, ông Tài, bà Xuân) đã góp tiền mặt
thông qua tài khoản của ông Nguyễn Duy Khánh chuyển số tiền 1.000.000.000
đồng vào tài khoản của ông Hùng với nội dung “Chuyển cho ông Bùi Văn Hùng để
giải quyết công nợ cho ông Nguyễn Trương Tấn ”. Sau đó, ông Hùng thực hiện
việc chi trả cổ tức cho ông Tấn theo cam kết. Cụ thể: ngày 02/6/2016, ông Hùng
chuyển trả cho ông Tấn số tiền 66.500.000 đồng tiền cổ tức tương ứng 100.000 cổ
phần; ngày 17/01/2017, ông Hùng chuyển trả cho ông Tấn 105.382.000 đồng tiền
3
cổ tức tương ứng 100.000 cổ phần.
Sau đó, ông Hùng không thực hiện việc chi trả tiền cổ tức cho ông Tấn như
cam kết nên ông Tấn đã có đơn khiếu nại đến Công ty Tam Long. Công ty Tam
Long ban hành Nghị quyết số 09/2018/NQ-HĐQT ngày 23/01/2019 với nội dung:
trích cổ tức của ông Hùng để chi trả cho ông Tấn, đề xuất Đại hội đồng cổ đông
điều chỉnh giảm cổ phiếu của ông Hùng xuống và tương ứng cấp giấy chứng nhận
sở hữu 100.000 cổ phần cho ông Tấn tại Công ty Tam Long. Trên cơ sở Nghị quyết
số 09 ngày 25/01/2019, ngày 30/1/2019, Công ty Tam Long chuyển trả cho ông
Tấn số tiền 750.500.000 đồng với nội dung “tạm ứng cổ tức 4.2”. Số tiền này
Công ty Tam Long đã tự trích từ tiền cổ tức của ông Hùng để chuyển cho ông Tấn.
Ông Hùng khởi kiện yêu cầu hủy bỏ Nghị quyết số 09/2018/NQ-HĐQT ngày
23/01/2019, yêu cầu Công ty Tam Long hoàn trả lại cho ông Hùng số tiền này và
tiền lãi. Tại Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 15/2020/KDTM-PT ngày
23/6/2020 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng đã quyết định chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của ông Hùng với nhận định: số tiền 1.000.000.000 đồng đã được Công ty
Tam Long chuyển cho ông Hùng để ông Hùng giải quyết công nợ với ông Tấn,
việc giải quyết công nợ này như thế nào là việc của ông Hùng với ông Tấn, không
còn liên quan đến Công ty Tam Long nên việc Công ty Tam Long tự ý trích cổ tức
của ông Hùng để chi trả cho ông Tấn khi không có sự đồng ý của ông Hùng là
không đúng. Thực hiện Bản án nêu trên, Công ty Tam Long đã thanh toán cho ông
Hùng số tiền 812.207.000 đồng theo thủ tục thi hành án và yêu cầu ông Tấn hoàn
trả lại số tiền nêu trên cho Công ty Tam Long nhưng ông Tấn không đồng ý.
Nay ông Tấn khởi kiện đề nghị Tòa án buộc ông Bùi Văn Hùng phải trả cho
ông Tấn toàn bộ phần vốn góp tương ứng 100.000 cổ phần tại Công ty Tam Long,
trị giá 6.600.000.000 đồng, cổ tức và tiền lãi tương ứng với thiệt hại của ông Tấn từ
năm 2019 đến nay, trị giá 1.500.000.000 đồng.
Bị đơn ông Bùi Văn Hùng không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Tấn
với lý do: mặc dù ngày 28/02/2010, Công ty Tam Long đồng ý quy đổi tiền công
sức của ông Tấn thành cổ phần của Công ty nhưng đây là thỏa thuận không đúng
quy định của pháp luật nên không thực hiện được. Do đó, năm 2014 các cổ đông
của Công ty đã thống nhất góp tiền lại đủ 1.000.000.000 đồng giao cho ông Hùng
chịu trách nhiệm giải quyết với ông Tấn. Ông Hùng đã liên hệ để thanh toán số tiền
này cho ông Tấn nhưng ông Tấn đề nghị ông Hùng giữ lại để đầu tư ở dự án khác.
Đồng thời, do chỗ quen biết nên để chia sẻ thiệt thòi của ông Tấn, ông Hùng đã tự
trích tiền cổ tức của ông Hùng được hưởng tương ứng với số cổ phần mà lẽ ra ông
Tấn được hưởng tại Công ty Tam Long cho ông Tấn chứ không phải ông Hùng
chuyển cho ông Tấn 100.000 cổ phần tại Công ty, ông Tấn không sở hữu bất kỳ cổ
phần nào tại Công ty Tam Long. Sau đó, năm 2017, ông Tấn lại yêu cầu ông Hùng
4
phải chuyển cho ông Tấn 100.000 cổ phần tại Công ty Tam Long, ông Hùng không
đồng ý thì ông Tấn liên tục khiếu nại đến Công ty nên Công ty đã ban hành Nghị
quyết số 09 làm ảnh hưởng đến quyền lợi của ông Hùng. Ông Hùng đã khởi kiện
và Nghị quyết số 09 đã bị Tòa án hủy. Do ông Tấn không đồng ý nhận số tiền
1.000.000.000 đồng mà liên tục khiếu nại nên ngày 14/11/2019, ông Hùng đã
chuyển lại số tiền trên vào tài khoản của ông Nguyễn Duy Khánh (là người đã nhận
số tiền của 03 cổ đông đóng góp sau đó chuyển cho ông Hùng để làm việc với ông
Tấn). Như vậy, số tiền 1.000.000.000 đồng là tiền công sức của ông Tấn do 03 cổ
đông tự nguyện đóng góp để chi trả và ông Hùng là người chịu trách nhiệm làm
việc với ông Tấn để thanh toán, không có bất kỳ tài liệu chứng cứ nào thể hiện ông
Tấn có 100.000 cổ phần tại Công ty Tam Long; ông Hùng không chiếm giữ cổ
phần của ông Tấn tại Công ty Tam Long nên yêu cầu khởi kiện của ông Tấn là
không có căn cứ.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Công ty cổ phần điện Tam Long có
đớn yêu cầu độc lập, đề nghị Tòa án buộc buộc ông Tấn phải trả lại cho Công ty
tổng số tiền là 1.280.435.159 đồng trong đó bao gồm số tiền mà Công ty đã hoàn
trả cho ông Hùng là 845.500.000 đồng và tiền lãi của số tiền này với mức lãi suất
10%/năm là 434.935.159 đồng, tổng cộng 1.280.435.159 đồng. Đối với yêu cầu
khởi kiện của ông Tấn thì công ty cho rằng đây là thỏa thuận giữa cá nhân, đề nghị
Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Đỗ Thị Xuân khẳng định sau khi
liên hệ với ông Tấn để giải quyết công nợ, ông Hùng đồng ý nhận giải quyết khoản
nợ này bằng cách khấu trừ vào số cổ phần của ông Hùng hiện đang sở hữu tại Công
ty Tam Long nên 03 cổ đông đã góp đủ số tiền 1.000.000.000 đồng để chuyển vào
tài khoản cá nhân ông Hùng tương ứng với số cổ phần là 100.000 CP để ông Hùng
làm thủ tục chuyển qua cho ông Tấn nhưng ông Hùng không thực hiện. Nay cổ tức
của Công ty tăng cao nên ông Hùng nảy sinh lòng tham, không chuyển 100.000 cổ
phần cho ông Tấn là không đúng. Mặc dù việc Công ty tự ý trích cổ tức của ông
Hùng để thanh toán cho ông Tấn là không đúng thủ tục nhưng đúng với bản chất là
số tiền góp vốn vào Công ty của ông Tấn đang do ông Hùng chiếm giữ nên đề nghị
Tòa án buộc ông Hùng phải có trách nhiệm thanh toán khoản nợ là 100.000 cổ
phần cho ông Tấn.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Phạm Công Tài cho rằng việc
ông Hùng nhận 1 tỷ đồng từ 03 cổ đông để chuyển đổi thành cổ phần cho ông Tấn
là ông Hùng thực hiện nội dung Biên bản họp Hội đồng quản trị ngày 28/02/2010
của các cổ đông cũ, ông Hùng đã chi trả cổ tức năm 2015 và 2016 cho ông Tấn
nhưng sau đó không chi trả nữa nên phát sinh tranh chấp. Đây là quan hệ giữa cá
nhân ông Hùng và ông Tấn, đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.
5
* Tại Bản án sơ thẩm số 263/2024/DS-ST ngày 23/9/2024 của TAND thành
phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Trương Tấn.
Buộc bị đơn ông Bùi Văn Hùng phải trả cho nguyên đơn ông Nguyễn Trương
Tấn số tiền là 8.100.000.000 đồng, trong đó: Giá trị phần vốn góp tại Công ty cổ
phần điện Tam Long là 6.600.000.000 đồng và toàn bộ lợi tức tương ứng với thiệt
hại từ năm 2019 là 1.500.000.000 đồng.
2. Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Công ty cổ phần điện Tam Long.
Buộc nguyên đơn ông Nguyễn Trương Tấn phải trả cho người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan Công ty cổ phần điện Tam Long tổng số tiền là 1.020.941.000
đồng, trong đó: số tiền cổ tức mà công ty đã chi trả là 845.500.000 đồng và tiền lãi
là 175.441.000 đồng”.
Trong hạn luật định, nguyên đơn và bị đơn có đơn kháng cáo.
* Tại Bản án phúc thẩm số 75/2025/DS-PT ngày 06/3/2025, Tòa án nhân dân
tỉnh Đắk Lắk quyết định:
Chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Trương Tấn và
bị đơn ông Bùi Văn Hùng. Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 263/2024/DS-ST ngày
23/9/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuật, tỉnh Đắk Lắk.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn
Trương Tấn.
Buộc ông Bùi Văn Hùng phải trả cho ông Nguyễn Trương Tấn số tiền
1.000.000.000 đằng (một tỷ đồng).
2. Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Công ty cổ phần điện Tam Long.
Buộc nguyên đơn ông Nguyễn Trương Tấn phải trả cho người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan Công ty cổ phần điện Tam Long tổng số tiền là 845.500.000
đồng (tám trăm bốn mươi lăm triệu năm trăm ngàn đồng).
Ngoài ra bản án phúc thẩm còn quyết định về án phí.
* Ngày 01/4/2025, ông Nguyễn Trương Tấn có đơn đề nghị xem xét theo thủ
tục giám đốc thẩm đối với Bản án phúc thẩm nêu trên.
* Tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 45/2025/QĐ-VKS-DS ngày
27/5/2025, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng kháng nghị
6
Bản án phúc thẩm nêu trên; đề nghị Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại
Đà Nẵng xét xử giám đốc thẩm hủy toàn bộ Bản án phúc thẩm, giữ nguyên bản án
sơ thẩm
* Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại
Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử giám đốc thẩm chấp nhận kháng nghị của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
- Tại Biên bản họp Hội đồng quản trị ngày 28/02/2010 của Công ty Tam
Long, 04 thành viên HĐQT giữ 100% vốn điều lệ thống nhất: xác định phần đóng
góp bằng công tham gia thiết kế lập DAĐT của ông Nguyễn Trương Tấn là
1.000.000.000 (một tỷ đồng), số tiền này được quy ra cổ phiếu phát hành lần đầu
với giá 100.000đ/CP.
- Sau khi thủy điện Hòa Phú hoàn thành, ngày 07/5/2014, ông Bùi Văn Hùng
là chủ tịch HĐQT công ty Tam Long nhận trách nhiệm liên hệ với ông Tấn để giải
quyết công nợ, ông Hùng gửi mail cho ông Tấn nội dung như sau:
“… tuy nhiên các anh chị vẫn muốn Tấn xác nhận lại nội dung mà lãnh đạo
của TLP cũ (anh Sơn, anh Hùng, chị Xuân) đã thỏa thuận với Tấn về chi phí và
phương thức thanh toán những khoản đóng góp của Tấn cho dự án này. Ai là
người đại diện TLP trao đổi với Tấn về việc này? Và ở đâu? Hy vọng Tấn sẽ phản
hồi sớm để HĐQT có kế hoạch xử lý dứt điểm khoản nợ này” Ông Tấn gửi mail
phản hồi với nội dung: “Anh Sơn trực tiếp trao đổi tại văn phòng cty 95-Ngô
Quyền với nội đung: trả cho Tấn 1 tỷ ... nhưng chưa thanh toán ngay được nên sẽ
quy về tỷ lệ % cổ phần … Nếu không được quy về cổ phần đóng góp thì Tấn đã xin
thanh toán từ khi dự án được phê dụyệt chứ đâu để đến bây giờ? 5 năm rồi còn gì...
vì nhiều lý do, đặc biệt là khi đó Tấn thuộc biên chế của Công ty CP Tư vấn Xây
dựng Điện 4 nên không thể đứng tên”.
Như vậy, nội dung email trao đổi ngày 07/5/2014 thể hiện ông Hùng đề nghị
ông Tấn xác nhận chi phí công sức ông Tấn đã bỏ ra khi thực hiện thủ tục pháp lý
cho dự án và phương thức thanh toán, ông Tấn xác nhận chi phí là 1.000.000.000
đồng và phương thức thanh toán đã được HĐQT cũ chấp nhận là quy về % cổ phần
(nếu không đã yêu cầu thanh toán từ lâu không để tới 05 năm). Ông Hùng không có
ý kiến phản đối gì về nội dung trao đổi của ông Tấn.
- Sau đó, ông Hùng đã họp với 2 cổ đông còn lại là bà Xuân và ông Tài, 03 cổ
đông đã lập Bảng xác nhận công nợ phải trả từ 30/3/2014 đến khi kết thúc dự án có
khoản nợ của ông Tấn là 1.000.000.000 đồng, đồng thời ghi chú: 03 cổ đông xác
nhận khoảng nợ 1 tỷ của ông Tấn theo nội dung mail trao đổi ngày 7/5/2014 sẽ do
ông Hùng chịu trách nhiệm giải quyết; nghĩa là 3 cổ đông thống nhất khoản nợ
1.000.000.000 đồng cũng như phương thức thanh toán (là quy số tiền
1.000.000.000 đồng về số % cổ phần) như ông Tấn đã trao đổi trong email mà
7
không có ý kiến phản đối gì và giao ông Hùng chịu trách nhiệm. Nội dung này phù
hợp với lời khai của bà Xuân và ông Tài khẳng định khi họp bàn 03 cổ đông thống
nhất sẽ thanh toán cho ông Hùng 1.000.000.000 đồng để ông Hùng chuyển nhượng
100.000 cổ phần cho ông Tấn. Thực hiện thỏa thuận, ngày 21/5/2014, 3 cổ đông
gồm cả ông Hùng đã góp đủ số tiền 1.000.000.000 đồng vào tài khoản trung gian
của ông Nguyễn Duy Khánh để ông Khánh chuyển vào tài khoản cá nhân ông
Hùng có nội dung để giải quyết công nợ với ông Nguyễn Trương Tấn.
Như vậy, ông Hùng đã nhận trách nhiệm với các cổ đông về việc thực hiện
thanh toán công nợ cho ông Tấn theo nội dung email ngày 07/5/2014 mà nội dung
mail ngày 07/5/2014 thể hiện phương thức thanh toán là quy đổi số tiền 1 tỷ thành
% cổ phần và ông Hùng đã nhận đủ số tiền 1.000.000.000 đồng vào ngày
21/5/2014 tương ứng 100.000 CP. Sau đó các năm 2015, 2016, ông Hùng đều
thanh toán đầy đủ cổ tức tương ứng với số cổ phần 100.000 CP (0,467% vốn điều
lệ công ty) cho ông Tấn (trong các hóa đơn chuyển tiền ông Hùng đều ghi rõ là
thanh toán tiền cổ tức) là đúng thỏa thuận mà các bên đã thống nhất về phương
thức thanh toán số tiền công sức cho ông Tấn.
Lẽ ra, sau khi nhận số tiền 1.000.000.000 đồng của 3 cổ đông thanh toán để
mua cổ phần cho ông Tấn, ông Hùng phải làm thủ tục chuyển nhượng 100.000 cổ
phần của ông Hùng cho ông Tấn theo đúng quy định của pháp luật nhằm đảm bảo
quyền lợi của ông Tấn nhưng ông Hùng không thực hiện là lỗi của ông Hùng. Do
đó, Tòa án cấp sơ thẩm buộc ông Hùng phải thanh toán cho ông Tấn giá trị của
100.000 cổ phần Công ty điện Tam Long trị giá 6.600.000.000 đồng và thiệt hại là
cổ tức từ năm 2019 đến tháng 7/2024 trị giá 1.500.000.000 đồng mà lẽ ra ông Tấn
được hưởng nếu ông Hùng thực hiện đúng việc chuyển nhượng cổ phần là có căn
cứ, đúng pháp luật.
Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng Văn bản ngày 07/5/2014 của 03 cổ đông Công
ty về việc giao 1.000.000.000 đồng cho ông Hùng để giải quyết với ông Tấn chỉ có
giá trị xác định công sức đóng góp của ông Tấn được các cổ đông này tự nguyện
ghi nhận, chi trả là 1.000.000.000 đồng, từ đó Tòa án cấp phúc thẩm chỉ buộc ông
Hùng trả cho ông Tấn số tiền 1.000.000.000 đồng là không đúng với bản chất của
sự việc cũng như thỏa thuận giữa các bên về việc thanh toán tiền công sức cho ông
Tấn.
Đối với yêu cầu độc lập của Công ty Tam Long không có khiếu nại, kiến nghị;
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng không kháng nghị nên
không xem xét.
Hội đồng xét xử cấp giám đốc thẩm xét thấy Quyết định kháng nghị giám đốc
thẩm số 45/2025/QĐ-VKS-DS ngày 27/5/2025 của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng là có cơ sở nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
8
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 337; khoản 2 Điều 343 và Điều 344; Điều 348
và Điều 349 Bộ luật Tố tụng dân sự, tuyên xử:
1. Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 75/2025/DS-PT ngày 06/3/2025
của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm
263/2024/DS-ST ngày 23/9/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột,
tỉnh Đắk Lắk.
2. Về án phí phúc thẩm:
Ông Nguyễn Trương Tấn không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, được
nhận lại 300.000 đồng tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo Biên lai thu số
AA/2023/0013679 ngày 08/10/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố
Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Ông Bùi Văn Hùng không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, được nhận lại
300.000 đồng tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo Biên lai thu số
AA/2023/0013778 ngày 15/10/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố
Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
3. Quyết định giám đốc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Hội đồng giám
đốc thẩm ra quyết định.
Nơi nhận:
- Vụ Pháp chế và quản lý khoa học TANDTC ;
- Viện trưởng VKSNDCC tại Đà Nẵng;
- TAND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk ;
- Chi cục THADS thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk
Lắk (để thi hành);
- Các đương sự (theo địa chỉ);
- Lưu: VP; Vụ Giám đốc thẩm, tái thẩm, HS vụ án,
THS.
TM. ỦY BAN THẨM PHÁN
PHÓ CHÁNH ÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Trần Huy Đức
9
10
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 25/08/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
2
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
3
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
4
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
5
Ban hành: 04/08/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
6
Ban hành: 25/07/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
7
Ban hành: 23/07/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
8
Ban hành: 02/07/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
9
Ban hành: 30/06/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
10
Ban hành: 25/06/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
11
Ban hành: 20/06/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
12
Ban hành: 18/06/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
13
Ban hành: 11/06/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
14
Ban hành: 30/05/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
15
Ban hành: 28/05/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
16
Ban hành: 20/05/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
17
Ban hành: 20/05/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
18
Ban hành: 16/05/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
19
Ban hành: 09/05/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm