Quyết định số 26/2025/DS-PT ngày 17/03/2025 của TAND tỉnh Quảng Nam về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Quyết định 26/2025/DS-PT

Tên Quyết định: Quyết định số 26/2025/DS-PT ngày 17/03/2025 của TAND tỉnh Quảng Nam về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Quảng Nam
Số hiệu: 26/2025/DS-PT
Loại văn bản: Quyết định
Ngày ban hành: 17/03/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Nguyễn Thị S - Hà Hồng P
Tóm tắt Quyết định

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG NAM
Bản án số: 26/2025/DS-PT.
Ngày: 17-3-2025.
V/v tranh chấp về hợp đồng vay
tài sản và đòi lại tài sản.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NAM
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
ông Phạm Quốc Bảo.
ông Nguyễn Văn Dũng;
Võ Thị Minh Phượng.
- Thư phiên tòa: Trần Thị Mẫn - Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Nam.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam: bà Trần Thị Thanh
Bắc - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Trong các ngày 14 và 17 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Nam xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số: 124/2024/TLPT-DS
ngày 28 tháng 11 năm 2024 về việc Tranh chấp vhợp đồng vay tài sản đòi
lại tài sản”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 241/2024/DS-ST ngày 27 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 151/2024/QĐXXPT-
DS ngày 12 tháng 12 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1967.
Địa chỉ: Số C đường P, thành phố T, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: ông Nguyễn
Xuân B là Luật sư của Văn phòng L1 thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Q. Có mặt.
2. Bị đơn: ông Hồng P, sinh năm 1966 Nguyễn Thị C, sinh năm
1972.
Địa chỉ: Số C đường P, thành phố T, tỉnh Quảng Nam.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: ông Công L, sinh năm 1999;
địa chỉ liên hệ: Số C đường L, phường H, quận H, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.
3. Người kháng cáo: nguyên đơn Nguyễn Thị S, bị đơn ông Hồng P
và bà Nguyễn Thị C.
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, các lời khai trong hồ sơ vụ án tại phiên tòa,
nguyên đơn Nguyễn Thị S người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của
nguyên đơn trình bày:
Nguyễn Thị S Nguyễn Thị C hai chị em ruột. Vào ngày 21-9-
2019 âm lịch, bà C ông P đến nhà S mượn số tiền 600.000.000 đồng đ
trả tiền làm nhà cho thợ.
Vào ngày 30-12-2017 âm lịch, C mượn 150.000.000 đồng cùng ông P
để trả tiền lãi ngân hàng (chữ viết trên giấy mượn tiền là của bà C).
Vào tối ngày 07-6-2011 âm lịch, bà C và ông P mượn bà S số tiền
185.000.000 đồng để trả tiền lãi ngân hàng mua hàng để bán (chữ viết trên
giấy mượn tiền là của bà C).
Vào ngày 08-5-2020 dương lịch, C viết giấy mượn S số tiền
27.000.000 đồng để mua hàng, đối với số tiền này bà S không yêu cầu trả tiền lãi.
Vào ngày 15-5-2020 bà C viết giấy mượn S số tiền 20.000.000 đồng đ
mua hàng về bán, đối với số tiền nàyS không yêu cầu trả tiền lãi.
Tất cả các khoản nợ nêu trên vợ chồng C ông P mượn về chi tiêu
trong gia đình, bà S yêu cầu Toà án giải quyết buộc ông P và bà C phải trả số tiền
nợ gốc tổng cộng 982.000.000 đồng tiền lãi theo quy định của pháp luật.
Toàn bsố tiền nêu trên cho bà C, ông P mượn tiền riêng của nhân S,
không liên quan gì đến chồng, con bà S.
Về lãi chậm trả: S không thống nhất với ý kiến của C ông P về
việc cho rằng đã hết thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 429 của Bộ luật
Dân snên không đồng ý trả lãi đối với các khoản tiền nợ này. sau khi hết
thời hạn cho mượn thì S cũng đã nhiều lần gọi điện, thậm chí đến nhà đòi
nhưng C ông P không chịu trả, cũng chỗ chị em trong nhà nên S
mới không đòi quyết liệt để cho em S thời gian làm ăn, tích góp trả n
cho S, chS không kiện ngay sau khi hết thời hạn cho mượn. Ngoài ra,
S đề nghị Tòa án áp dụng khoản 1 Điều 156 của Bộ luật Dân sự để khấu trừ thời
gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án, sự kiện bất khả kháng dịch
bệnh Covid -19 xảy ra trong khoảng thời gian tnăm 2020 đến năm 2023, do
dịch bệnh nên phải giãn cách hội theo Chỉ thị số 15/CT-TTg ngày 27/3/2020
của Thủ tướng Chính phủ, Tòa án cũng tạm ngừng nhận đơn khởi kiện, không
tiếp công dân theo Chỉ thị s02/2020/CT-CA ngày 10/3/2020 của Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao về phòng, chống dịch Covid-19.
Nay, S khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: buộc Nguyễn ThC
ông Hà Hồng P phải trả lại cho bà S số tiền nợ gốc và tiền lãi chậm trả như sau:
- Đối với số tiền 150.000.000 đồng mà C ông Phi M của S vào
ngày 30/12/2017 âm lịch (tức ngày 15/02/2018 dương lịch), thời hạn mượn 03
tháng, đến ngày 15/5/2018 phải trả, nhưng đến nay bị đơn chưa trả. Do đó, lãi
chậm trả tính từ ngày 16/5/2018 đến ngày xét xử thẩm (ngày 27/8/2024) 75
3
tháng. Mức lãi: bà S đề nghị áp dụng mức lãi được quy định tại khoản 2 Điều 468
của Bộ luật Dân s10%/năm, là: 150.000.000 đồng x 10%/năm = 15.000.000
đồng/năm, hoặc là 1.250.000 đồng/tháng x 75 tháng = 93.750.000 đồng. Tổng
gốc và lãi là: 150.000.000 đồng + 93.750.000 đồng = 243.750.000 đồng.
- Đối với số tiền 600.000.000 đồng mà C ông Phi M của S vào
ngày 21/9/2019 âm lịch (tức ngày 19/10/2019 dương lịch), trả lãi hàng tháng.
Mức lãi: C ông P chấp nhận trả lãi hằng tháng, S đề ngháp dụng mức
lãi được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 20%/năm, là:
600.000.000 đồng x 20%/năm = 120.000.000 đồng/năm, hoặc là 10.000.000
đồng/tháng. Tiền lãi tính từ ngày 19/10/2019 đến ngày xét x thẩm (ngày
27/8/2024) 58 tháng x 10.000.000 đồng/tháng = 580.000.000 đồng. C
ông P đã trả được 12 tháng tiền lãi theo mức lãi thỏa thuận là: 4.500.000
đồng/tháng/100.000.000đồng, là 27.000.000 đồng/tháng, là 324.000.000 đồng. Số
tiền lãi còn lại mà bà C và ông P còn phải trả tính đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày
27/8/2024) là: 256.000.000 đồng (580.000.000 đồng - 324.000.000 đồng). Tổng
gốc và lãi là: 600.000.000 đồng + 256.000.000 đồng = 856.000.000 đồng.
- Đối với số tiền 185.000.000 đồng mà C ông Phi M của S vào
ngày 07/6/2011 âm lịch (tức ngày 07/7/2011 dương lịch), các bên thỏa thuận
mức lãi nhưng S không nhớ cụ thể, nên áp dụng mức lãi được quy định tại
khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự, 10%/năm, là: 185.000.000 đồng x
10%/năm = 18.500.000 đồng/năm, hoặc 1.541.666 đồng/tháng. S yêu cầu
bà C và ông P trả lãi từ ngày bà S gửi đơn khởi kiện đến Tòa án (ngày 07/4/2024)
cho đến ngày xét xử thẩm (ngày 27/8/2024) 4,5 tháng, 6.937.500 đồng.
Tổng gốc và lãi là: 185.000.000 đồng + 6.937.500 đồng = 191.937.500 đồng.
- Đối với số tiền 27.000.000 đồng C mượn của bà S vào ngày
08/5/2020 thì S yêu cầu trả lại tiền này cho S S không yêu cầu tính
lãi.
- Đối với số tiền 20.000.000 đồng C mượn của bà S vào ngày
15/5/2020, tS yêu cầu trả lại tiền này cho S bà S không yêu cầu tính
lãi.
Do đó, bà S khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Thị C và ông Hà Hồng P phải trả
lại cho S 982.000.000 đồng tiền nợ gốc tiền lãi chậm trả 356.687.500
đồng, tổng cộng là 1.338.687.500 đồng.
Tại lời khai có trong hồ sơ vụ án, bị đơn là ông Hà Hồng P, bà Nguyễn Thị
C tại phiên tòa, người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn trình bày:
- Đối với khoản vay 600.000.000 đồng theo Giấy mượn tiền vào ngày
21/09/2019 âm lịch:
Trước đây, bà Nguyễn Thị T (em gái ruột của bà Nguyễn Thị S) đang gặp
khó khăn về kinh tế nên muốn vay của S số tiền 600.000.000 đồng nhưng bà S
không cho. Bà T đến tìm bà C năn nỉ nhờ đứng ra vay của S. Lúc đó, bà S yêu
cầu cả hai vợ chồng ông P, C cùng vào giấy mượn tiền thì mới đồng ý cho
4
T mượn stiền 600.000.000 đồng. Vợ chồng C cũng thương hoàn cảnh em
gái đang gặp khó khăn nên đồng ý.
o ngày 21/9/2019 âm lịch (19/10/2019 dương lịch), vchồng C, ông
P có viết giấy vay của bà Nguyễn Thị S số tiền là 600.000.000 đồng. Lãi suất vay
100.000.000 đồng trả 4.500.000 đồng/tháng, tức đối với khoản vay
600.000.000 đồng trả 27.000.000 đồng/tháng (tương đương mức lãi suất
54%/năm). Hình thức thu tiền lãi thu theo tháng. T đưa tiền cho v
chồng bà C thanh toán cho bà S được 13 tháng tiền lãi (từ ngày 21/9/2019 âm lịch
đến ngày 21/10/2020 âm lịch) với số tiền đã trả lãi cho S 27.000.000 x 13
tháng = 351.000.000 đồng. Sau đó, T vỡ nợ, bỏ đi khỏi địa phương nên vợ
chồng C không có nguồn lực tiếp tục trả lãi cho S và S cũng không có ý
kiến gì, cũng như không khởi kiện ra Tòa án. Tại buổi hòa giải ngày 12/07/2024,
S cũng đã xác nhận về lãi suất số tiền lãi vợ chồng bà C đã trả từ ngày
21/9/2019 (âm lịch) đến ngày 21/10/2020 (âm lịch) là 13 tháng.
Nay, S khởi kiện yêu cầu vợ chồng C, ông P trả lại cho số tiền
600.000.000 đồng và trả tiền lãi từ ngày 21/10/2020 âm lịch cho đến khi trả xong
theo quy định, vợ chồng C có ý kiến như sau:
+ S cho vợ chồng C vay với mức lãi suất 54%/năm đã vượt quá
20%/năm theo quy định tại Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
Theo khoản 1 Điều 468 của Bộ luật n sự quy định lãi suất vượt quá
20%/năm, thì mc lãi suất vượt quá sẽ không hiệu lực. Do vậy, đối với khoản
vay 600.000.000 đồng của vợ chồng C chỉ được tính mức lãi suất là 20%/năm
với số tiền lãi của 13 tháng 130.000.000 đồng. Tuy nhiên, vợ chồng C đã
thanh toán cho S tiền lãi từ ngày 21/9/2019 (âm lịch) đến ngày 21/10/2020
(âm lịch) 351.000.000 đồng. Do vậy, mức lãi suất vượt quá 34% tương
đương với số tiền lãi vượt quá 221.000.000 đồng. Vchồng bà C đề nghị cấn
trừ vào số tiền nợ gốc 600.000.000 đồng. Như vậy, số tiền vợ chồng C còn
phải trả cho bà S là 379.000.000 đồng đối với khoản vay tại Giấy mượn tiền ngày
21/9/2019 (âm lịch).
+ Đối với yêu cầu vợ chồng bà C trả lãi đối với khoản vay nêu trên từ ngày
21/10/2020 (âm lịch), vợ chồng C không đồng ý đã hết thời hiệu khởi kiện
để yêu cầu tính lãi. Bởi từ ngày 21/10/2020 (âm lịch) khi vợ chồng C không
tiền để trả thì S không đòi và không ý kiến gì, đến nay S mới khởi
kiện đã quá 03 năm. Do vậy, vợ chồng C không đồng ý trả tiền lãi yêu
cầu áp dụng thời hiệu đối với yêu cầu trả lãi của bà S.
- Đối với khoản vay của Nguyễn Thị C theo giấy mượn 150.000.000
đồng ngày 30/12/2017 âm lịch (15/02/2018 dương lịch):
Vào ngày 30/12/2017 âm lịch (15/02/2018 dương lịch), Nguyễn Thị C
có vay của bà Nguyễn Thị S số tiền 150.000.000 đồng, không có lãi suất, với thời
hạn vay 03 tháng. Tuy nhiên, do tình hình buôn bán không khả quan nên hết
thời hạn 3 tháng C vẫn chưa trả được cho bà S nhưng bà S vẫn không ý
kiến gì. Đối với yêu cầu trả lãi khoản vay nêu trên từ ngày 30/4/2018, vchồng
C không đồng ý đã hết thời hiệu khởi kiện. Bởi từ ngày 30/4/2018, C
5
không trả được thì S không ý kiến đến nay S mới tiến hành khởi
kiện đã quá 03 năm. Do vậy, vợ chồng C không đồng ý trả tiền lãi đề
nghị Tòa án áp dụng thời hiệu đối với yêu cầu trả lãi của bà S.
- Đối với khoản vay 185.000.000 đồng theo giấy mượn tiền ngày
07/6/2011 âm lịch (07/7/2011 dương lịch):
Ngày 07/6/2011 âm lịch (07/7/2011 dương lịch), Nguyễn Thị C có vay
của bà Nguyễn Thị S stiền 185.000.000 đồng, không có i suất không thỏa
thuận thời hạn trả. Mục đích vay để giúp em gái là bà Nguyễn Thị T đang gặp
khó khăn. Do tình hình buôn bán không khả quan nên C mất khả năng trả nợ
cho S nhưng S vẫn không ý kiến gì. Đối với yêu cầu của S vtrả lãi
kể tngày 07/6/2021 âm lịch đối với khoản vay không k hạn không lãi,
vợ chồng C không đồng ý. Bởi đây khoản vay không thỏa thuận thời hạn
trả, kể từ sau thời điểm vay thì bà C không trả được tiền nợ nhưng bà S không đòi
cũng như không có ý kiến đến nay S mới tiến hành khởi kiện nên không
phát sinh về tiền lãi.
- Đối với khoản vay 27.000.000 đồng theo giấy mượn tiền ngày 08/5/2020
dương lịch:
Ngày 08/5/2020 dương lịch, bà Nguyễn Thị C mượn của S số tiền
27.000.000 đồng, không có lãi suất không có thỏa thuận về thời hạn trả lãi.
đây khoản vay không kỳ hạn không lãi, kể từ sau thời điểm vay thì C
không trả được tiền nợ nhưng bà S không đòi cũng như không có ý kiến gì và đến
nay bà S mới tiến hành khởi kiện nên không phát sinh về tiền lãi. S cũng khởi
kiện không yêu cầu tính lãi là phù hợp với quy định pháp luật nên vợ chồng C
đồng ý.
- Đối với khoản vay 20.000.000 đồng theo giấy mượn tiền ngày 15/5/2020
dương lịch:
Ngày 15/5/2020 dương lịch, bà Nguyễn Thị C mượn của S số tiền
20.000.000 đồng, không có lãi suất không có thỏa thuận về thời hạn trả lãi.
đây khoản vay không kỳ hạn không lãi, kể từ sau thời điểm vay thì C
không trả được tiền nợ nhưng bà S không đòi cũng như không có ý kiến gì và đến
nay bà S mới tiến hành khởi kiện nên không phát sinh về tiền lãi. S cũng khởi
kiện không yêu cầu tính lãi là phù hợp với quy định pháp luật nên vợ chồng C
đồng ý.
Với nội dung vụ án như trên, tại Bản án dân sự thẩm số: 241/2024/DS-
ST ngày 27/8/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Tam K, tỉnh Quảng Nam đã
căn cứ vào các Điều 357, 463, khoản 1 Điều 466, Điều 468 và khoản 2 Điều 470
của Bộ luật Dân sự; khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1
Điều 39, Điều 147, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Tuyên
xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị S về tranh chấp
hợp đồng vay tài sản với bà Nguyễn Thị C, ông Hà Hồng P.
6
Buộc bà Nguyễn Thị C, ông Hà Hồng P phải có nghĩa vụ thanh toán cho bà
Nguyễn Thị S số tiền còn nợ gốc theo nội dung mượn tiền từ Giấy mượn tiền
ngày 21/9/2019 âm lịch 379.000.000 đồng tiền lãi 282.565.500 đồng, tổng
cộng là 661.565.500 đồng.
Buộc bà Nguyễn Thị C, ông Hà Hồng P phải có nghĩa vụ thanh toán cho bà
Nguyễn Thị S số tiền còn nợ gốc theo nội dung mượn tiền từ giấy mượn tiền
ngày 30/12/2017 âm lịch 150.000.000 đồng tiền lãi 94.208.000 đồng, tổng
cộng là 244.208.000 đồng.
Buộc bà Nguyễn Thị C, ông Hà Hồng P phải có nghĩa vụ thanh toán cho bà
Nguyễn Thị S số tiền còn nợ gốc theo nội dung mượn tiền từ giấy mượn tiền
ngày 07/6/2011 âm lịch 185.000.000 đồng tiền lãi 5.550.000 đồng, tổng
cộng là 190.550.000 đồng.
Buộc bà Nguyễn Thị C, ông Hà Hồng P phải có nghĩa vụ thanh toán cho bà
Nguyễn Thị S số tiền còn nợ gốc theo nội dung mượn tiền từ giấy mượn tiền
ngày 08/5/2020 dương lịch là 27.000.000 đồng.
Buộc bà Nguyễn Thị C, ông Hà Hồng P phải có nghĩa vụ thanh toán cho bà
Nguyễn Thị S số tiền còn nợ gốc theo nội dung mượn tiền từ giấy mượn tiền
ngày 15/5/2020 dương lịch là 20.000.000 đồng.
Tổng cộng buộc Nguyễn Thị C, ông Hồng P phải nghĩa vụ thanh
toán cho Nguyễn Thị S số tiền gốc tiền lãi 1.096.323.000 đồng đối với
các giấy được tính tiền lãi 47.000.000 đồng đối với các giấy vay không tính
tiền lãi. Tổng cộng buộc Nguyễn Thị C, ông Hồng P phải nghĩa vụ
thanh toán cho Nguyễn Thị S tất cả các khoản 1.143.323.000 đồng (trong
đó tổng tiền gốc là 761.000.000 đồng và tổng tiền lãi là 382.323.000 đồng).
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị S đối với
Nguyễn Thị C ông Hồng P về việc yêu cầu trả số tiền gốc tiền lãi là
195.364.500 đồng.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, nghĩa vụ thi hành án và
quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét x thẩm, ngày 07/9/2024, bị đơn ông Hồng P,
Nguyễn Thị C ngày 10/9/2024, nguyên đơn Nguyễn Thị S đơn kháng
cáo một phần bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam
phát biểu ý kiến:
- Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai
đoạn phúc thẩm: Thẩm phán được phân công trực tiếp giải quyết ván đã thực
hiện đúng các quy định của pháp luật về việc thụ vụ án, về thời hạn giải quyết
vụ án, về việc chuyển hồ vụ án cho Viện kiểm sát nghiên cứu để tham gia xét
xử. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư phiên tòa đã thực hiện đúng trình tự,
thủ tục theo quy định của pháp luật. Các đương sự đã thực hiện đúng quyền,
nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.
7
- Về việc giải quyết vụ án: đnghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều
308 Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bị
đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét
xử phúc thẩm nhận định:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn không rút yêu cầu khởi kiện,
người kháng cáo giữ nguyên kháng cáo; nguyên đơn xác định chỉ kháng cáo một
phần bản án thẩm đối với số tiền gốc tiền lãi (của số tiền vay 600.000.000
đồng) không được Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận là 195.364.500 đồng (theo
nguyên đơn c định số tiền chính xác 194.434.500 đồng) đnghị Tòa án
cấp phúc thẩm chấp nhận toàn bộ số tiền này (nguyên đơn chỉ yêu cầu tính lãi
đến ngày xét xử thẩm); bị đơn xác định chỉ kháng cáo một phần bản án
thẩm đối với số tiền lãi mà Tòa án cấp thẩm đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn 382.323.500 đồng đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm không
chấp nhận số tiền lãi này, đã hết thời hiệu khởi kiện; các đương sự không thỏa
thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
[2] Xét kháng cáo của nguyên đơn Nguyễn Thị S bị đơn ông
Hồng P, bà Nguyễn Thị C thì thấy:
[2.1] Đối với số tiền vay 600.000.000 đồng theo “Giấy mượn tiền” ngày
21/9/2019 âm lịch (tức ngày 19/10/2019 dương lịch): đây hợp đồng vay
không kỳ hạn lãi; mặc dù, trong “Giấy mượn tiền” không ghi mức lãi
suất nhưng các bên đương sự thừa nhận thỏa thuận trả lãi hàng tháng (theo ngày
dương lịch), với mức lãi suất 4,5%/tháng (tức 54%/năm) bị đơn đã trả cho
nguyên đơn được 13 tháng tiền lãi (trả hàng tháng), tương ứng với số tiền
351.000.000 đồng.
Xét thấy, lãi suất các bên thỏa thuận đã vượt quá i suất giới hạn
20%/năm được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 nên
mức lãi suất vượt qkhông hiệu lực. Do đó, Tòa án cấp thẩm chỉ chấp
nhận mức lãi suất 20%/năm khấu trừ số tiền lãi đã trả vượt quá lãi suất giới
hạn vào số tiền gốc căn cứ, đúng quy định pháp luật. Tuy nhiên, bị đơn trả
lãi hàng tháng nhưng Tòa án cấp thẩm lại khấu trừ một lần số tiền lãi đã trả
vượt quá lãi suất giới hạn vào số tiền gốc không đúng cần phải khấu trừ số
tiền lãi vượt quá này vào số tiền gốc tại từng thời điểm trả lãi hàng tháng (các
đương sự thừa nhận trả lãi hàng tháng theo ngày dương lịch), cụ thể như sau:
- Ngày 19/11/2019 (dương lịch), bị đơn đã trả cho nguyên đơn số tiền lãi là
27.000.000 đồng, trong đó số tiền lãi đã trả vượt quá lãi suất giới hạn
17.000.000 đồng [27.000.000 đồng - (600.000.000 đồng x 20%/năm : 12 tháng) =
17.000.000 đồng]. Như vậy, số tiền i đã trả vượt quá lãi suất giới hạn được trừ
vào số tiền gốc nên số tiền gốc còn nợ là: 600.000.000 đồng - 17.000.000 đồng =
583.000.000 đồng.
8
- Ngày 19/12/2019 (dương lịch), bị đơn đã trả cho nguyên đơn số tiền lãi là
27.000.000 đồng, trong đó số tiền lãi đã trả vượt quá lãi suất giới hạn
17.283.334 đồng [27.000.000 đồng - (583.000.000 đồng x 20%/năm : 12 tháng) =
17.283.334 đồng]. Như vậy, số tiền lãi đã trả vượt qlãi suất giới hạn được trừ
vào số tiền gốc nên số tiền gốc còn nợ là: 583.000.000 đồng - 17.283.334 đồng =
565.716.666 đồng.
- Ngày 19/01/2020 (dương lịch), bị đơn đã trả cho nguyên đơn số tiền lãi là
27.000.000 đồng, trong đó số tiền lãi đã trả vượt quá lãi suất giới hạn
17.571.389 đồng [27.000.000 đồng - (565.716.666 đồng x 20%/năm : 12 tháng) =
17.571.389 đồng]. Như vậy, số tiền i đã trả vượt quá lãi suất giới hạn được trừ
vào số tiền gốc nên số tiền gốc còn nợ là: 565.716.666 đồng - 17.571.389 đồng =
548.145.277 đồng.
- Ngày 19/02/2020 (dương lịch), bị đơn đã trả cho nguyên đơn số tiền lãi là
27.000.000 đồng, trong đó số tiền lãi đã trả vượt quá lãi suất giới hạn
17.864.246 đồng [27.000.000 đồng - (548.145.277 đồng x 20%/năm : 12 tháng) =
17.864.246 đồng]. Như vậy, số tiền i đã trả vượt quá lãi suất giới hạn được trừ
vào số tiền gốc nên số tiền gốc còn nợ là: 548.145.277 đồng - 17.864.246 đồng =
530.281.031 đồng.
- Ngày 19/3/2020 (dương lịch), bị đơn đã trả cho nguyên đơn số tiền lãi
27.000.000 đồng, trong đó số tiền lãi đã trả vượt quá lãi suất giới hạn
18.161.983 đồng [27.000.000 đồng - (530.281.031 đồng x 20%/năm : 12 tháng) =
18.161.983 đồng]. Như vậy, số tiền i đã trả vượt quá lãi suất giới hạn được trừ
vào số tiền gốc nên số tiền gốc còn nợ là: 530.281.031 đồng - 18.161.983 đồng =
512.119.048 đồng.
- Ngày 19/4/2020 (dương lịch), bị đơn đã trả cho nguyên đơn số tiền lãi
27.000.000 đồng, trong đó số tiền lãi đã trả vượt quá lãi suất giới hạn
18.464.683 đồng [27.000.000 đồng - (512.119.048 đồng x 20%/năm : 12 tháng) =
18.464.683 đồng]. Như vậy, số tiền i đã trả vượt quá lãi suất giới hạn được trừ
vào số tiền gốc nên số tiền gốc còn nợ là: 512.119.048 đồng - 18.464.683 đồng =
493.654.365 đồng.
- Ngày 19/5/2020 (dương lịch), bị đơn đã trả cho nguyên đơn số tiền lãi
27.000.000 đồng, trong đó số tiền lãi đã trả vượt quá lãi suất giới hạn
18.772.428 đồng [27.000.000 đồng - (493.654.365 đồng x 20%/năm : 12 tháng) =
18.772.428 đồng]. Như vậy, số tiền lãi đã trả vượt qlãi suất giới hạn được trừ
vào số tiền gốc nên số tiền gốc còn nợ là: 493.654.365 đồng - 18.772.428 đồng =
474.881.937 đồng.
- Ngày 19/6/2020 (dương lịch), bị đơn đã trả cho nguyên đơn số tiền lãi
27.000.000 đồng, trong đó số tiền lãi đã trả vượt quá lãi suất giới hạn
19.085.302 đồng [27.000.000 đồng - (474.881.937 đồng x 20%/năm : 12 tháng) =
19.085.302 đồng]. Như vậy, số tiền i đã trả vượt quá lãi suất giới hạn được trừ
vào số tiền gốc nên số tiền gốc còn nợ là: 474.881.937 đồng - 19.085.302 đồng =
455.796.635 đồng.
9
- Ngày 19/7/2020 (dương lịch), bị đơn đã trả cho nguyên đơn số tiền lãi
27.000.000 đồng, trong đó số tiền lãi đã trả vượt quá lãi suất giới hạn
19.403.390 đồng [27.000.000 đồng - (455.796.635 đồng x 20%/năm : 12 tháng) =
19.403.390 đồng]. Như vậy, số tiền i đã trả vượt quá lãi suất giới hạn được trừ
vào số tiền gốc nên số tiền gốc còn nợ là: 455.796.635 đồng - 19.403.390 đồng =
436.393.245 đồng.
- Ngày 19/8/2020 (dương lịch), bị đơn đã trả cho nguyên đơn số tiền lãi là
27.000.000 đồng, trong đó số tiền lãi đã trả vượt quá lãi suất giới hạn
19.726.780 đồng [27.000.000 đồng - (436.393.245 đồng x 20%/năm : 12 tháng) =
19.726.780 đồng]. Như vậy, số tiền i đã trả vượt quá lãi suất giới hạn được trừ
vào stiền gốc nên số tiền gốc còn nợ là: 436.393.245 đồng - 19.726.780 đồng =
416.666.465 đồng.
- Ngày 19/9/2020 (dương lịch), bị đơn đã trả cho nguyên đơn số tiền lãi
27.000.000 đồng, trong đó số tiền lãi đã trả vượt quá lãi suất giới hạn
20.055.559 đồng [27.000.000 đồng - (416.666.465 đồng x 20%/năm : 12 tháng) =
20.055.559 đồng]. Như vậy, số tiền i đã trả vượt quá lãi suất giới hạn được trừ
vào số tiền gốc nên số tiền gốc còn nợ là: 416.666.465 đồng - 20.055.559 đồng =
396.610.906 đồng.
- Ngày 19/10/2020 (dương lịch), bị đơn đã trả cho nguyên đơn số tiền lãi là
27.000.000 đồng, trong đó số tiền lãi đã trả vượt quá lãi suất giới hạn
20.389.819 đồng [27.000.000 đồng - (396.610.906 đồng x 20%/năm : 12 tháng) =
20.389.819 đồng]. Như vậy, số tiền i đã trả vượt quá lãi suất giới hạn được trừ
vào số tiền gốc nên số tiền gốc còn nợ là: 396.610.906 đồng - 20.389.819 đồng =
376.221.087 đồng.
- Ngày 19/11/2020 (dương lịch), bị đơn đã trả cho nguyên đơn số tiền lãi là
27.000.000 đồng, trong đó số tiền lãi đã trả vượt quá lãi suất giới hạn
20.729.649 đồng [27.000.000 đồng - (376.221.087 đồng x 20%/năm : 12 tháng) =
20.729.649 đồng]. Như vậy, số tiền i đã trả vượt quá lãi suất giới hạn được trừ
vào số tiền gốc nên số tiền gốc còn nợ là: 376.221.087 đồng - 20.729.649 đồng =
355.491.438 đồng.
Sau khi trừ số tiền lãi đã trả vượt quá lãi suất giới hạn vào số tiền gốc, số
tiền gốc bđơn còn phải trả cho nguyên đơn kể từ ngày 20/11/2020 (dương lịch)
355.491.438 đồng nhưng Tòa án cấp thẩm buộc bị đơn trcho nguyên đơn
số tiền gốc 379.000.000 đồng vượt quá số tiền gốc bị đơn còn nợ; tuy nhiên, bị
đơn không kháng cáo đối với số tiền gốc này nên Hội đồng xét xphúc thẩm
không xem xét.
Từ ngày 20/11/2020 (dương lịch) đến ngày xét xử thẩm (27/8/2024) là
03 năm 09 tháng 07 ngày, bị đơn chưa trả lãi cho nguyên đơn nên buộc bị đơn
phải trả cho nguyên đơn số tiền lãi trên số tiền gốc còn n355.491.438 đồng,
theo mức lãi suất 20%/năm, cụ thể như sau: [(355.491.438 đồng x 20%/năm x 03
năm) + (355.491.438 đồng x 20%/năm : 12 tháng x 09 tháng) + (355.491.438
đồng x 20%/năm : 365 ngày x 07 ngày) = 213.294.862 đồng + 53.323.715 đồng
+ 1.363.528 đồng = 267.982.105 đồng.
10
Bị đơn kháng cáo không đồng ý trả tiền lãi cho rằng đã hết thời hiệu
khởi kiện là không có cơ sở chấp nhận. Bởi lẽ, đây là hợp đồng vay không kỳ hạn
lãi nên nguyên đơn (bên cho vay) quyền đòi lại tài sản bất cứ lúc nào,
nhưng phải báo trước cho bị đơn (bên vay) một thời gian hợp lý được trả lãi
đến thời điểm nhận lại tài sản theo như quy định tại khoản 2 Điều 469 của Bộ luật
Dân sự năm 2015.
[2.2] Đối với số tiền vay 150.000.000 đồng theo giấy mượn tiền ngày
30/12/2017 âm lịch (tức là ngày 15/02/2018 dương lịch): đây hợp đồng vay
kỳ hạn và không lãi; thời hạn vay 03 tháng (theo ngày dương lịch), ktừ
ngày 15/02/2018 (dương lịch); đến ngày 15/5/2018 (dương lịch), bị đơn phải
nghĩa vụ trả lại tiền vay cho nguyên đơn; tuy nhiên, đến nay bị đơn vẫn chưa trả.
Như vậy, từ ngày 16/5/2018 (dương lịch), nguyên đơn đã biết được quyền, lợi ích
hợp pháp của mình bị xâm phạm nên thời hiệu khởi kiện 03 năm, kể từ ngày
16/5/2018 (dương lịch); từ ngày 16/5/2018 (dương lịch) đến ngày nguyên đơn
nộp đơn khởi kiện tại Tòa án cấp thẩm (ngày 09/5/2024) 05 năm 11 tháng
23 ngày nên thời hiệu khởi kiện đã hết (quá thời hiệu 02 năm 11 tháng 23 ngày).
Nguyên đơn cho rằng thời hiệu khởi kiện vẫn còn vì thời gian giãn cách xã hội để
phòng, chống dịch bệnh Covid-19 không tính vào thời hiệu khởi kiện là không có
sở chấp nhận. Bởi lẽ, trong thời gian phòng, chống dịch bệnh Covid-19, Tòa
án vẫn tiến hành nhận đơn khởi kiện bình thường (theo Chỉ thị số: 02/2020/CT-
CA ngày 10/3/2020 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về phòng, chống dịch
Covid-19 trong hệ thống Tòa án nhân dân thì chỉ tạm dừng việc nhận đơn khởi
kiện trực tiếp tại trụ sở Tòa án từ ngày 10/3/2020 đến hết tháng 3/2020, nhưng
vẫn nhận đơn khởi kiện qua dịch vụ bưu chính hoặc trực tuyến bằng hình thức
điện tử qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án). Bị đơn yêu cầu áp dụng thời
hiệu khởi kiện trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án nhưng Tòa án cấp sơ thẩm
không áp dụng thời hiệu, vẫn chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc
bị đơn trả cho nguyên đơn số tiền lãi 94.208.000 đồng không đúng quy định
pháp luật; hơn nữa, nguyên đơn chỉ yêu cầu bị đơn trả số tiền lãi chậm trả (do
chậm trả tiền) 93.750.000 đồng nhưng Tòa án cấp thẩm buộc bị đơn trả số
tiền lãi 94.208.000 đồng là vượt qyêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Do thời
hiệu khởi kiện đã hết nên Hội đồng t xử phúc thẩm sở chấp nhận kháng
cáo của bị đơn, sửa bản án thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn về việc tính lãi chậm trả tiền trên stiền vay 150.000.000 đồng, với
số tiền là 93.750.000 đồng.
[2.3] Đối với số tiền vay 185.000.000 đồng theo giấy mượn tiền ngày
07/6/2011 âm lịch (tức là ngày 07/7/2011 dương lịch): nguyên đơn cho rằng các
bên thỏa thuận về việc trả lãi nhưng không nhớ cụ thể mức lãi suất bao
nhiêu, còn bị đơn không thừa nhận thỏa thuận trả lãi như nguyên đơn trình
bày. Do đó, Hội đồng t xử phúc thẩm xác định đây hợp đồng vay không kỳ
hạn và không lãi. Căn cứ vào khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Dân sự năm 2015
thì nguyên đơn (bên cho vay) quyền đòi lại tài sản vào bất cứ lúc nào, nhưng
phải báo cho bị đơn (bên vay) biết trước một thời gian hợp lý. Nguyên đơn không
cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh trước khi khởi kiện tại Tòa án
nguyên đơn đã đòi lại số tiền vay nhưng bị đơn không trả, còn bị đơn cho rằng
11
trước khi khởi kiện tại Tòa án, nguyên đơn chưa đòi lại số tiền vay. Do đó, thời
hiệu khởi kiện vẫn còn nguyên đơn có quyền yêu cầu bị đơn trả tiền lãi chậm
trả đối với số tiền vay kể từ ngày bị đơn được thông báo vviệc nguyên đơn đòi
lại tiền vay.
Xác định ngày bị đơn được thông báo về việc nguyên đơn đòi lại tiền vay:
ngày 20/5/2024, Tòa án cấp thẩm thụ vụ án theo đơn khởi kiện của nguyên
đơn; tuy nhiên, trong hồ vụ án không biên bản tống đạt hợp lệ Thông báo
về việc thụ lý vụ án cho bị đơn (chỉ có Biên bản tống đạt Thông báo về việc thụ lý
vụ án cho ông Công L người đại diện theo ủy quyền của bị đơn vào ngày
07/6/2024, nhưng thời điểm tống đạt cho ông L trước ngày bị đơn Giấy y
quyền cho ông L (ngày 28/6/2024) không hợp lệ). Tại Đơn đề nghị ngày
27/6/2024 (bút lục 26), bị đơn khai ngày nhận được Thông báo về việc thụ vụ
án ngày 22/6/2024. Do đó, sở xác định bị đơn được thông báo về việc
nguyên đơn đòi lại tiền vay vào ngày 22/6/2024 nhưng bị đơn vẫn không trả, nên
từ ngày 23/6/2024 bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ trả tiền cho nguyên đơn. vậy,
cần phải buộc bị đơn trả tiền lãi chậm trả cho nguyên đơn kể từ ngày 23/6/2024
đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 27/8/2024) là 02 tháng 04 ngày, theo mức lãi suất
quy định tại khoản 2 Điều 357 khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân snăm
2015, cụ thể như sau: [(185.000.000 đồng x 10%/năm : 12 tháng x 02 tháng) +
(185.000.000 đồng x 10%/năm : 365 ngày x 04 ngày)] = 3.286.072 đồng. Tòa án
cấp thẩm buộc bị đơn trả tiền lãi từ ngày 09/5/2024 (ngày Tòa án nhận đơn
khởi kiện của nguyên đơn) đến ngày xét xử sơ thẩm vi phạm việc báo trước
cho bị đơn theo quy định tại khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Dân sự năm 2015 nên
Hội đồng xét xử phúc thẩm có cơ sở chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn.
Bị đơn kháng cáo không đồng ý trả tiền lãi cho rằng đã hết thời hiệu
khởi kiện là không có cơ sở chấp nhận. Bởi lẽ, đây là hợp đồng vay không kỳ hạn
và không có lãi nên nguyên đơn (bên cho vay) quyền đòi lại tài sản vào bất cứ
lúc nào, nhưng phải báo cho bị đơn (bên vay) biết trước một thời gian hợp lý theo
như quy định tại khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
[2.4] Đối với số tiền gốc: 150.000.000 đồng theo giấy mượn tiền ngày
30/12/2017 âm lịch (tức ngày 15/02/2018 dương lịch); 185.000.000 đồng theo
giấy mượn tiền ngày 07/6/2011 âm lịch (tức ngày 07/7/2011 dương lịch);
27.000.000 đồng theo giấy mượn tiền ngày 08/5/2020 (dương lịch) và 20.000.000
đồng theo giấy mượn tiền ngày 15/5/2020 (dương lịch) Tòa án cấp thẩm
buộc bị đơn trả cho nguyên đơn, các đương sự không có kháng cáo nên Hội đồng
xét xử phúc thẩm không xem xét.
[2.5] Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy
không sở chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, sở chấp nhận một
phần kháng cáo của bị đơn, sửa bản án sơ thẩm.
[3] Án phí dân sự thẩm: do sửa bản án thẩm nên Hội đồng xét xử
phúc thẩm xác định lại nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm của nguyên đơn, bị
đơn theo quy định của pháp luật.
12
[4] Án phí dân sự phúc thẩm: Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án
thẩm nên nguyên đơn, bị đơn không phải chịu; hoàn trả lại cho nguyên đơn, bị
đơn số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 2 Điều 308 và Điều 309 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị S, chấp nhận
một phần kháng cáo của bị đơn ông Hồng P, Nguyễn Thị C, sửa một phần
Bản án dân sự sơ thẩm số: 241/2024/DS-ST ngày 27/8/2024 của Tòa án nhân dân
thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
Căn cứ vào các Điều 26, 35, 38, 39, 92, 147, 148 184 của Bộ luật Tố
tụng dân sự; các Điều 149, 154, 357, 429, 463, 466, 468, 469 470 của Bộ luật
Dân sự năm 2015; Điều 26 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của y ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thị S
về việc “Tranh chấp về hợp đồng vay tài sản đòi lại tài sản” đối với bị đơn
Nguyễn Thị C, ông Hà Hồng P.
Buộc Nguyễn Thị C ông Hồng P phải nghĩa vụ trả cho
Nguyễn Thị S số tiền gốc 379.000.000 đồng và tiền lãi 267.982.000 đồng, tổng
cộng 646.982.000 (Sáu trăm bốn ơi sáu triệu chín trăm tám mươi hai
nghìn) đồng theo giấy mượn tiền ngày 21/9/2019 âm lịch (tức là ngày 19/10/2019
dương lịch).
Buộc Nguyễn Thị C ông Hồng P phải nghĩa vụ trả lại cho
Nguyễn Thị S số tiền 150.000.000 (Một trăm năm mươi triệu) đồng theo giấy
mượn tiền ngày 30/12/2017 âm lịch (tức là ngày 15/02/2018 dương lịch).
Buộc Nguyễn Thị C ông Hồng P phải nghĩa vụ trả cho
Nguyễn Thị S số tiền gốc 185.000.000 đồng tiền lãi 3.286.000 đồng, tổng
cộng là 188.286.000 (Một trăm tám mươi tám triệu hai trăm tám mươi sáu nghìn)
đồng theo giấy mượn tiền ngày 07/6/2011 âm lịch (tức ngày 07/7/2011 dương
lịch).
Buộc Nguyễn Thị C ông Hồng P phải nghĩa vụ trả cho
Nguyễn Thị S số tiền gốc 27.000.000 (Hai mươi bảy triệu) đồng theo giấy mượn
tiền ngày 08/5/2020 (dương lịch).
Buộc Nguyễn Thị C ông Hồng P phải nghĩa vụ trả cho
Nguyễn Thị S số tiền gốc 20.000.000 (Hai mươi triệu) đồng theo giấy ợn tiền
ngày 15/5/2020 (dương lịch).
Kể từ ngàyđơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền
13
còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ
luật Dân sự năm 2015.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị S về việc buộc
Nguyễn Thị Công Hồng P trả số tiền gốc và lãi là 306.419.500 (Ba trăm lẻ
sáu triệu bốn trăm mười chín nghìn năm trăm) đồng.
Án phí dân sự thẩm: buộc Nguyễn Thị C và ông Hồng P phải
chịu số tiền 42.968.000 (Bốn mươi hai triệu chín trăm sáu mươi tám nghìn) đồng;
buộc Nguyễn Thị S phải chịu số tiền 15.320.000 (Mười lăm triệu ba trăm hai
mươi nghìn) đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm bà Nguyễn Thị S
đã nộp 20.730.000 (Hai mươi triệu bảy trăm ba mươi nghìn) đồng theo Biên lai
thu tạm ứng án phí, lphí Tòa án số 0001366 ngày 20/5/2024 của Chi cục Thi
hành án dân sự thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, hoàn trả lại cho Nguyễn
Thị S số tiền là 5.410.000 (Năm triệu bốn trăm mười nghìn) đồng.
Án phí dân sự phúc thẩm: Nguyễn Thị S, Nguyễn Thị C ông
Hồng P không phải chịu; hoàn trả lại cho bà Nguyễn Thị S số tiền tạm ứng án phí
phúc thẩm đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo Biên lai thu tạm ứng án
phí, lệ phí Tòa án số 0001515 ngày 20/9/2024 hoàn trả lại cho bà Nguyễn Thị
C, ông Hồng P số tiền tạm ứng án pphúc thẩm đã nộp 300.000 (Ba trăm
nghìn) đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án s0001512 ngày
16/9/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (17/3/2025).
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi nh án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 9 Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh Quảng Nam;
- TAND thành phố Tam Kỳ;
- Chi cục THADS thành phố Tam Kỳ;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
ký)
Phạm Quốc Bảo
Tải về
Quyết định số 26/2025/DS-PT Quyết định số 26/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Quyết định số 26/2025/DS-PT Quyết định số 26/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Quyết định cùng lĩnh vực

Quyết định mới nhất