Bản án số 73/2019/HS-ST ngày 23/07/2019 của TAND Q. Hải Châu, TP. Đà Nẵng về tội mua bán trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 73/2019/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 73/2019/HS-ST ngày 23/07/2019 của TAND Q. Hải Châu, TP. Đà Nẵng về tội mua bán trái phép chất ma túy
Tội danh: 251.Tội mua bán trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND Q. Hải Châu (TAND TP. Đà Nẵng)
Số hiệu: 73/2019/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 23/07/2019
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ: Không
Đính chính: Không
Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI CHÂU, TP. ĐÀ NNG

BẢN ÁN 73/2019/HS-ST NGÀY 23/07/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 70/2019/TLST-HS ngày 07/6/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 73/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Trần Minh Q (Tên gọi khác: B); Giới tính: Nam; Sinh ngày 15 tháng 6 năm 1993; Tại: Quảng Nam; Nơi ĐKHKTT: Khu 1 TT, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam; Chỗ ở: đường A, phường B, quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông Nguyễn Văn H và bà Trần Thị T; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 27/02/2019. Có mặt tại phiên tòa

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Hồ Đắc T1 - sinh 1996; Địa chỉ: tổ 5B, phường H, quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và qua diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tt như sau:

Khoảng 19 giờ 15 phút ngày 27/02/2019, tại trước số nhà 02 đường Ông Ích Khiêm, phường Thanh Bình, quận Hải Châu, thành phố Đà nẵng, Đội CSĐT tội phạm về ma túy Công an quận Hải Châu tuần tra phát hiện Nguyễn Trần Minh Q vừa bước xuống xe ô tô Kia K3, màu trắng, BKS: 43A-173.72 do Hồ Đắc T1 điều khiển có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện, thu giữ trong túi quần phía trước, bên phải của Q đang có một (01) gói thuốc lá hiệu 555, bên trong có hai (02) gói ni lông màu trắng kích thước (2,5x2,5) cm, được hàn kín, bên trong có chứa tinh thể rắn, màu trắng và một (01) gói ni long màu trắng kích thước (2,8x1,5)cm, được hàn kín bên trong có hai (02) viên nén hình tròn, màu xanh nghi là ma túy, được niêm phong, ký hiệu “A”.

Ngoài ra còn thu giữ của Q:

- 01 (một) điện thoại di động, có dòng chữ Iphone, màu trắng, số Imei: 352048073381660, chứa sim số: 0905772230;

- 20 (hai mươi) gói ni long chưa qua sử dụng;

Đến 01 giờ 15 phút ngày 28/02/2019, cơ quan CSĐT Công an quận Hải Châu tiến hành khẩn xét khẩn cấp nơi ở của Q tại đường A, phường B, quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng nhưng không thu giữ gì.

* Theo kết luận giám định số 57/GĐ-MT ngày 06/3/2019 của phòng hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: Chia mẫu niêm phong ký hiệu A thành:

+ Mẫu A.1: 01 (một) gói ni lông, bên trong có chứa 02 (hai) viên nén hình trong màu xanh là ma túy, loại MDMA, khối lượng: 0,695 gam.

+ Mẫu A.2: 02 (hai) gói ni lông, bên trong có chứa tinh thể rắn, màu trắng, là ma túy, loại katemine, khối lượng là 0,627 gam.

Hoàn lại đối tượng giám định gồm: 0 gam mẫu A.1; 0.440 gam mẫu A.2 và toàn bộ vỏ bao gói.

Quá trình điều tra Q khai nhận: Tối ngày 26/02/2019 Q mua ma túy và thuốc lắc của một nam thanh niên không rõ nhân thân lai lịch để sử dụng tại quán karaoke. Q mua với giá 1.000.000đ/ 01 gói katemine và 350.000đ/ 01 viên thuốc lắc. Sau khi sử dụng còn dư lại 01 gói katemine và 02 viên thuốc lắc, Q cất lại với mục đích để bán kiếm lời.

Đến 18 giờ ngày 27/02/2019, Q đang ở đường A, phường B, quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng thì nhận được điện thoại từ số thuê bao 0905.396.785 của một người bạn tên S là người bạn quen biết ngoài xã hội (hiện chưa xác định được lai lịch) gọi đến cho số điện thoại của Q là 0905.772.230 để hỏi mua ma túy, số lượng là 01 chỉ katemine và 02 viên thuốc lắc. Q đồng ý và báo với giá 2.000.000đ/ 01 chỉ katemine và 400.000đ/ 01 viên thuốc lắc. Q lấy 02 viên thuốc lắc và 01 gói katemine sử dụng còn dư và phân gói katemine thành 02 gói nhỏ rồi bỏ tất cả ma túy trên vào vỏ gói thuốc lá hiệu 555. Sau đó, Q bắt xe dịch vụ ô tô grab do Hồ Đắc T1 điều khiển đi đến điểm hẹn giao dịch tại khu vực lễ tân của khách sạn Công đoàn số 02 đường Ông Ích Khiêm, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Đến khoảng 19 giờ 15 phút cùng ngày, khi Q đến điểm hẹn, chưa gặp S thì Q bị bắt như đã nêu trên.

Quá trình điều tra, Nguyễn Trần Minh Q đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Xử lý vật chứng:

Chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự quận Hải Châu vật chứng sau: 0 gam mẫu A1; 0,440 gam mẫu A2 và toàn bộ vỏ bao gói hoàn lại sau giám định; 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu trắng, số Imei: 352048073381660, chứa sim số: 0905772230 và 20 (hai mươi) gói ni lông chưa qua sử dụng;

Tại bản cáo trạng số 74/CT-VKS ngày 07 tháng 6 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã truy tố Nguyễn Trần Minh Q về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Nguyễn Trần Minh Q về tội danh nói trên đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51, điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 24 tháng đến 30 tháng tù. Về vật chứng, đề nghị tịch thu tiêu hủy đối với các vật chứng là ma túy, bao vỏ hoàn trả sau giám định, 20 gói ni lông chưa qua sử dụng, tịch thu sung công quỹ Nhà nước điện thoại di động hiệu Iphone thu giữ của bị cáo Q.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Trần Minh Q đều khai nhận hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã đề cập. Bị cáo không có ý kiến gì về mặt tội danh cũng như điều luật mà đại diện Viện kiểm sát truy tố và mức đề nghị áp dụng.

Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Hồ Đắc T1 vắng mặt nhưng đã có lời khai tại hồ sơ vụ án. Lời khai của ông T1 là phù hợp với các tài liệu chứng cứ của vụ án cũng như lời khai của bị cáo Nguyễn Trần Minh Q tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thm vn công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo cũng như những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận tội của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người liên quan, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, do đó Hội đồng xét xử có cơ sở khẳng định: Khoảng 19 giờ 15 phút ngày 27/02/2019, tại trước số nhà 02 đường Ông Ích Khiêm, phường Thanh Bình, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, Đội CSĐT tội phạm về ma túy Công an quận Hải Châu kiểm tra hành chính, phát hiện bắt quả tang Nguyễn Trần Minh Q đang tàng trữ 0,695 gam ma túy loại MDMA và 0,627 gam ma túy loại Ketamine nhằm mục đích bán để thu lời. Do đó Hội đồng xét xử có cơ sở khẳng định Cáo trạng số 74/CT-VKS ngày 07 tháng 6 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng tội.

[3] Xét tính chất vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội. Bị cáo có hành vi mua bán ma túy để lấy tiền tiêu xài. Do đó đối với bị cáo cần phải bị xử lý nghiêm, cách ly ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục đồng thời làm gương cho người khác. Mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị từ 24 tháng đến 30 tháng tù giam là tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó Hội đồng xét xử sẽ xem xét mức án khi lượng hình

[4] Về các tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có ông nội là ông Nguyễn Văn T2 là người có công với Cách mạng được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì, Huân chương quyết thắng, do đó Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, giảm cho bị cáo một phần hình phạt khi lượng hình để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.

[5] Đối với những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án:

Đối với Hồ Đắc T1 là lái xe dịch vụ grab: Không biết, không liên quan đến hành vi mua bán trái phép chất ma túy của Q. Qua kiểm tra, T1 có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Công an quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng ra quyết định xử lý hành chính đối với T1 là có căn cứ.

Đối với người thanh niên có hành vi bán ma túy cho Nguyễn Trần Minh Q, và đối tượng mua ma túy tên S hiện chưa xác định được họ tên địa chỉ nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Hải Châu tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

[6] Về xử lý vật chứng:

[6.1] Đối với các vật chứng gồm: 0 gam mẫu A1; 0,440 gam mẫu A2; 20 (hai mươi) gói ni lông chưa qua sử dụng và toàn bộ vỏ bao gói hoàn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy.

[6.2] Đối với vật chứng là một điện thoại di động hiệu Iphone, màu trắng, số Imei: 352048073381660, chứa sim số: 0905772230 là phương tiện bị cáo Q dùng để liên lạc mua bán ma túy nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Trần Minh Q phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

1. Căn cứ vào: khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Nguyễn Trần Minh Q 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 27/02/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy: 0 gam mẫu A1; 0,440 gam mẫu A2; 20 (hai mươi) gói ni lông chưa qua sử dụng và toàn bộ vỏ bao gói hoàn lại sau giám định;

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước một điện thoại di động hiệu Iphone, màu trắng, số Imei: 352048073381660, chứa sim số: 0905772230.

(Vật chứng trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Hải Châu, thành ph Đà Nng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/6/2019 giữa Cơ quan CSĐT Công an quận Hải Châu và Chi cục thi hành án dân sự quận Hải Châu, thành ph Đà Nng)

3. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14; Buộc bị cáo Nguyễn Trần Minh Q phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm, bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay.

Riêng người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án.

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất