Bản án số 50/2019/HS-PT ngày 13/08/2019 của TAND TP. Hải Phòng về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 50/2019/HS-PT

Tên Bản án: Bản án số 50/2019/HS-PT ngày 13/08/2019 của TAND TP. Hải Phòng về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Tội danh: 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Hải Phòng
Số hiệu: 50/2019/HS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 13/08/2019
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ: Không
Đính chính: Không
Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 50/2019/HS-PT NGÀY 13/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 41/2019/TLPT-HS ngày 05 tháng 07 năm 2019 đối với bị cáo Đoàn Thị T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 33/2019/HS-ST ngày 30/05/2019 của Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng.

- Bị cáo có kháng cáo:

Đoàn Thị T, sinh ngày 27 tháng 9 năm 1972 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Số nhà 31/37/346, đường H, phường N, quận L, Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; quốc tịch: Việt Nam; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; con ông Đoàn Quý H và bà Bùi Thị T (đã chết); có chồng là Nguyễn Văn C, chưa có con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 24/2010/HSPT ngày 30/3/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 36 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (đã được xóa án tích); bị tạm giữ từ ngày 13/01/2019, chuyển tạm giam từ ngày 16/01/2019, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 30 phút, ngày 13/01/2019, Đoàn Thị T điều khiển xe máy điện biển kiểm soát 15MĐ1-482.12 đến khu vực cầu Quay, L, Hải Phòng với mục đích mua ma túy để cho chồng T là Nguyễn Văn C sử dụng. Tại đây, T đã gặp và mua của người phụ nữ (không rõ lai lịch và địa chỉ) 61 gói ma túy với giá 3.000.000 đồng (ba triệu đồng). Mua xong T chia số ma túy ra thành các gói nhỏ rồi để 09 gói vào túi áo khoác bên trái đang mặc, 03 gói ma túy vào túi áo khoác bên phải còn 49 gói để trong mũ bảo hiểm đang đội ở trên đầu, rồi điều khiền xe máy điện về đến khu vực chân cầu Tam Bạc, phường Hạ Lý, quận Hồng Bàng thì bị bắt quả tang cùng tang vật đưa về Công an phường Hạ Lý lập biên bản.

Khi Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Hải Phòng thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp số: 21/PC04, ngày 13/01/2019 tại chỗ ở của Đoàn Thị T đã T giữ trên nóc tivi trong phòng ngủ của vợ chồng T một ví da màu đen bên trong có một túi nilon chứa một gói ma túy. T khai đã mua gói ma túy này vào chiều ngày 10/01/2019 của một phụ nữ không rõ lai lịch tại khu vực cầu Quay Tộc quận L, mục đích cũng để cho chồng T là Nguyễn Văn C sử dụng. Khám xét trong tủ quần áo của vợ chồng T, Cơ quan điều tra T giữ số tiền 40.000.000 (bốn mươi triệu) đồng.

Tại Bản kết luận giám định số: 28/KLGĐ, ngày 14/01/2019 của Phòng Kỹ Tật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận:

- Chất bột màu trắng trong 09 gói giấy bọc ngoài mỗi gói là túi nilon màu đen gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,7057 gam, là loại Heroine.

- Chất bột màu trắng trong 03 gói giấy bọc ngoài mỗi gói là túi nilon màu đen gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,5215 gam, là loại Heroine.

- Chất bột màu trắng trong 49 gói giấy bọc ngoài mỗi gói là túi nilon màu đen gửi giám định là ma túy, có khối lượng 3,6253 gam, là loại Heroine.

- Chất bột màu trắng của mẫu khám xét trong 01 túi nilon có 01 gói giấy gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,7215 gam, là loại Heroine.

Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Đoàn Thị T đã khai nhận: Chồng của bị cáo là Nguyễn Văn C bị mắc bệnh thoát vị đĩa đệm, gãy chân và chân đã bị hoại tử khoảng hai năm trở lại đây. Do vậy mỗi lần C bị đau chân thì T có lấy ma túy cho C sử dụng để giảm cơn đau. Sáng ngày 13/01/2019 bị cáo điều khiển xe máy điện đến khu vực cầu Quay, L gặp người phụ nữ không quen biết và mua 61 gói ma túy với giá 3.000.000 đồng. Bị cáo chia số ma túy ra thành các gói nhỏ để cất giấu trên người ở các vị trí: 09 gói và túi áo khoác bên trái đang mặc 03 gói ma túy vào túi áo khoác bên phải còn 49 gói để trong mũ bảo hiểm đang đội ở trên đầu, rồi điều khiển xe máy điện về đến khu vực chân cầu Tam Bạc, Phường Hạ Lý, quận Hồng Bàng, thì bị phát hiện bắt quả tang cùng tang vật đưa về trụ sở Công an phường Hạ Lý lập biên bản. Khi Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Hải Phòng khám xét chỗ ở đã phát hiện và T giữ trên nóc tivi trong phòng ngủ của vợ chồng T một ví da màu đen bên trong có một túi nilon chứa một gói ma túy. Số ma túy này chính T đã mua vào chiều ngày 10/01/2019 của một người phụ nữ không rõ lai lịch tại khu vực cầu Quay, L, với mục đích cũng là để cho chồng là Nguyễn Văn C sử dụng.

Tại Bản án số 33/2019/HS-ST ngày 30/05/2019 của Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng đã xử phạt: Đoàn Thị T 06(sáu) năm về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt từ tính từ ngày tạm giữ tính từ ngày 13/01/2019.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 14/6/2019 bị cáo Đoàn Thị T có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm đề nghị xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo Đoàn Thị T trình bày: Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu tại bản án cấp sơ thẩm. Tuy nhiên bị cáo kháng cáo về phần hình phạt, bản án sơ thẩm đã tuyên xử bị cáo hơi nặng. Đề nghị HĐXX phúc thẩm xem xét đến hoàn cảnh của gia đình bị cáo khó khăn và bố mẹ chồng bị cáo đều tham gia kháng chiến được tặng thưởng Huân chương của Nhà nước để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng trình bày: Căn cứ lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay đều phù hợp với lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra, tuy tố và xét xử sơ thẩm. Do đó bản án sơ thẩm tuyên xử bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b, g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ. Về phần hình phạt, bản án sơ thẩm cũng đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo được hưởng. Tuy nhiên tại cấp phúc thẩm, bị cáo xuất trình thêm các tài liệu thể hiện bố mẹ chồng của bị cáo là người có công với cách mạng. Đây là tình tiết mới vì vậy đề nghị HĐXX chấp nhận kháng cáo của bị cáo, áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án, các Cơ quan điều tra, Công an quận Hồng Bàng, điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng, Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm về cơ bản đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của các Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng tại cấp sơ thẩm đã thực hiện là hợp pháp.

- Về nội dung: Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo Đoàn Thị T,

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Đoàn Thị T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình , lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, biên bản khám xét và vật chứng T giữ được, kết quả giám định và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án, cụ thể ngày 10/01/2019 bị cáo đã mua và cất giấy tại nhà của bị cáo lượng ma túy là 1,7215 gam Heroine, ngày 13/01/2019 bị cáo đã mua, cất giấu trên người lượng ma túy là 4,8525 gam Heroine. Như vậy Bản án sơ thẩm đã tuyên xử bị cáo T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b, g khoản 2 Điều 249 Bộ Luật Hình sự là có căn cứ.

[3] Ngoài ra, bản án sơ thẩm cũng đã xem xét đến việc bị cáo thành khẩn khai báo và hoàn cảnh gia đình khó khăn để áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo.

[4] Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm bị cáo Đoàn Thị T xuất trình thêm được tài liệu, chứng cứ về gia đình bị cáo có bố, mẹ chồng cùng tham gia kháng chiến và được tặng thưởng Huy chương là người có công với cách mạng. Đây là tài liệu, chứng cứ mới là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, do đó HĐXX chấp nhận kháng cáo của bị cáo, xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên Hội đồng xét xử không xét.

[6] Về án phí: Bị cáo T không chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đoàn Thị T, sửa Bản án sơ thẩm số 33/2019/HS-ST ngày 30/5/2019 của Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng; giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ điểm b, g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Đoàn Thị T 5 (năm) năm 6 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 13/01/2019.

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức T phí, miễn, giảm, T nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Đoàn Thị T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của Bản án số 33/2019/HS-ST ngày 30/5/2019 của Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất