Bản án số 38/2020/HS-ST ngày 06/08/2020 của TAND huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 38/2020/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 38/2020/HS-ST ngày 06/08/2020 của TAND huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Tội danh: 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Đắk Song (TAND tỉnh Đắk Nông)
Số hiệu: 38/2020/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 06/08/2020
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ: Không
Đính chính: Không
Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK SONG, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 38/2020/HS-ST NGÀY 06/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 33/2020/TLST-HS ngày 19 tháng 6 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2020/QĐXXST- HS ngày 20-7-2020, đối với bị cáo:

Vũ Văn H, sinh năm 1990, tại tỉnh Đăk Nông; nơi cư trú: Thôn 7, xã T, huyện Đ, tỉnh Đăk Nông; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Ngọc C (đã chết) và bà Vũ Thị H; có vợ là Nguyễn Thị H và 01 con (sinh năm 2014); nhân thân: Ngày 21-9-2015, Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk tuyên miễn trách nhiệm hình sự về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; bị bắt tạm giữ từ ngày 21-3-2020 sau đó chuyển tạm giam đến nay - Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Vũ Văn V, sinh năm 1985; địa chỉ: Thôn 7, xã T, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông – Có mặt;

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vũ Văn H là đối tượng nghiện ma túy nên khoảng 08 giờ ngày 21-3-2020, Vũ Văn H liên lạc với đối tượng tên M (chưa rõ nhân thân, lai lịch) để mua ma túy về sử dụng thì M đồng ý. Vũ Văn H đi xe mô tô BKS 48F4- 2371, hiệu Halim, đến khu vực chợ N, huyện Đ, gặp M mua ma túy với số tiền 600.000 đồng. M đưa cho Vũ Văn H ma túy đựng trong 02 tờ giấy bạc màu vàng cất trong bao thuốc lá WARHORSE, Vũ Văn H cầm gói ma túy đi đến khu vực khe hâm thuộc xã N, huyện Đ lấy một ít ra sử dụng. Sau đó, Vũ Văn H để gói ma túy đựng trong bao thuốc lá trên gác ba ga xe mô tô điều khiển đi về xã T, huyện Đ. Đến 10 giờ 15 phút cùng ngày, khi Vũ Văn H đi đến khu vực cầu ông Chương thuộc thôn T, xã T, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, thì bị lực lượng Đồn Biên phòng Đ, thuộc Bộ chỉ huy bộ đội biên phòng Đắk Nông bắt quả tang, thu giữ: 02 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất rắn dạng cục màu trắng; 01 xe mô tô BKS: 48F4- 2371 hiệu Halim; 01 giấy chứng M nhân dân mang tên Vũ Văn H.

Tại bản kết luận giám định số 34/KLMT-PC09 ngày 24-3-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông, kết luận: chất rắn màu trắng thu giữ của Vũ Văn H là ma túy, có tổng khối lượng mẫu là 0,2631 gam, là hêrôin. Hoàn lại sau giám định còn 0,1732 gam.

Vt chứng và đồ vật thu giữ gồm: 02 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất rắn dạng cục màu trắng; 01 xe mô tô BKS: 48F4- 2371 hiệu Halim; 01 giấy chứng M nhân dân mang tên Vũ Văn H.

Cáo trạng số: 36/CT-VKS-ĐS ngày 18 tháng 6 năm 2020, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đắk Song đã truy tố bị cáo Vũ Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo thừa nhận cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk Song truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng, không oan.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Song vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo. Sau khi phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Vũ Văn H mức hình phạt từ 02 (Hai) năm đến 03 (Ba) năm tù.

Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị tuyên tịch thu tiêu hủy 0,1732 gam hêrôin đã thu được của Vũ Văn H. Chấp nhận việc Cơ quan điều tra trả lại 01 xe mô tô BKS 48F4- 2371, hiệu Halim, cho anh Vũ Văn V, là chủ sở hữu hợp pháp; trả lại 01 giấy chứng M nhân dân mang tên Vũ Văn H cho Vũ Văn H là chủ sở hữu hợp pháp.

Bị cáo đồng ý với đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk Song, không bào chữa gì thêm, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Đăk Song, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk Song, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Xét thấy, các chứng cứ buộc tội và quan điểm đề nghị xử lý của Kiểm sát viên đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật. Vì vậy, đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội như sau: Do ý thức xem thường pháp luật nên ngày 21- 3-2020, Vũ Văn H mua ma túy của đối tượng tên M (chưa rõ nhân thân, lai lịch) tại khu vực xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, để sử dụng. Khi đi đến khu vực cầu ông Chương thuộc thôn Thuận Lợi, xã T, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, Vũ Văn H bị lực lượng Đồn biên phòng Đ bắt quả tang thu giữ 0,2631 gam hêrôin trên gác ba ga xe mô tô Vũ Văn H điều khiển. Do đó, đã có đủ căn cứ để kết luận hành vi của bị cáo Vũ Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Điều 249 Bộ luật hình sự quy định: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) ...

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

...

2. ...”

[3]. Xét tính chất vụ án do bị cáo Vũ Văn H gây ra là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm đến trật tự công cộng, gây ảnh hưởng xấu đến nền trật tự trị an tại địa phương nơi bị cáo cư trú cũng như tình hình chung trong xã hội. Do đó, Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức hình phạt đủ nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra, cách ly bị cáo với xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục, răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội.

[4]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Kết quả xác M xác định bị cáo không đứng tên tài sản gì nên không phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Đối với người đàn ông tên “M” đã bán ma túy cho Vũ Văn H tại khu vực xã N, huyện Đ, quá trình điều tra chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên chấp nhận việc cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Song tiếp tục điều tra làm rõ để có căn cứ, xử lý sau.

Đối với hành sử dụng trái phép chất ma túy của Vũ Văn H, chấp nhận việc cơ quan Công an huyện Đắk Song đã ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, số tiền 750.000đ (BL 68).

[7]. Về vật chứng vụ án: Căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,1732 gam gam hêrôin đã thu được của Vũ Văn H.

Chấp nhận việc Cơ quan điều tra trả lại 01 xe mô tôBKS 48F4- 2371, hiệu Halim, cho anh Vũ Văn V, là chủ sở hữu hợp pháp; trả lại 01 giấy chứng M nhân dân mang tên Vũ Văn H cho Vũ Văn H là chủ sở hữu hợp pháp.

[8]. Về án phí: Bị cáo Vũ Văn H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH:

1. Tuyên bố: Bị cáo Vũ Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Căn cứ điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Vũ Văn H 02 (Hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 21-3-2020.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 0,1732 gam hêrôin đã thu được của Vũ Văn H.

Chấp nhận việc Cơ quan điều tra trả lại 01 xe mô tô biển kiểm soát 48F4- 2371, hiệu Halim, cho anh Vũ Văn V, là chủ sở hữu hợp pháp; trả lại 01 giấy chứng M nhân dân mang tên Vũ Văn H cho Vũ Văn H là chủ sở hữu hợp pháp.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Buộc bị cáo Vũ Văn H phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Vũ Văn H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Vũ Văn V có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất