Bản án số 36/2024/HNGĐ-ST ngày 25/07/2024 của TAND TX. Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
-
Bản án số 36/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 36/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 36/2024/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 36/2024/HNGĐ-ST ngày 25/07/2024 của TAND TX. Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TX. Hồng Ngự (TAND tỉnh Đồng Tháp) |
Số hiệu: | 36/2024/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 25/07/2024 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | tranh chấp về chia tài sản sau ly hôn |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒNG NGỰ TỈNH ĐỒNG THÁP
Bản án số: 36/2024/HNGĐ-ST Ngày: 25-7-2024
V/v “Tranh chấp chia tài sản sau ly hôn”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒNG NGỰ, TỈNH ĐỒNG THÁP
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Phương Thảo. Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Bùi Minh Châu; 2. Ông Lê Thành Trung.
- Thư ký phiên tòa: Bà Lê Th Kim Loan là Thư ký Tòa án nhân dân thành phố H ng Ng , tỉnh Đ ng Tháp.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồng Ngự tham gia phiên tòa: Bà Trương Ngọc Oanh - Kiểm sát viên.
Trong ngày 25 tháng 7 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H ng Ng , tỉnh Đ ng Tháp, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 115/2024/TLST- HNGĐ ngày 25 tháng 4 năm 2024, về vi c “Tranh chấp chia tài sản sau ly hôn” theo Quyết đ nh đưa vụ án ra xét xử số: 83/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 7 năm 2024, giữa các đương s :
- Nguyên đơn: Ông Đinh Văn C, sinh năm 1956. - Bị đơn: Bà Nguyễn Th B, sinh năm 1957.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: 1. Bà Đinh Th H, sinh năm 1976;
2. Ông Đinh Hậu G, sinh năm 1986;
3. Bà Đặng Th Thúy H1, sinh năm 1988. - Người làm chứng:
1. Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1954.
2. Bà Trương Th Ngọc Mai E, sinh năm 1973
Tất cả cùng đ a chỉ: khóm C, phường A, thành phố N, tỉnh Đ ng Tháp. NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Nguyên đơn ông Đinh Văn C trình bày: Nguyên trước đây vợ ch ng ông có 12 công đất và bán với giá là 12 lượng vàng vào năm 2006 khi bán đắt 12 công vợ ch ng ông đã trả nợ cho bà Bảy T (đã chết) một cây vàng, thời điểm lúc đó là 600.000đ/chỉ vàng 24 Kara I, vợ ch ng mới mua lại một căn nhà và đất với số tiền là 13.000.000đ ng quy thành vàng là 02 (hai) cây 24 Kara 9T8. Vào năm 2006 thì vợ ch ng ông có bán một căn nhà tre với giá là 0,5 phân vàng 24Kara 9 tuổi 8. Vậy tổng cộng sau khi trả nợ và mua đất thì số vàng còn lại là 9,5 cây vàng 24 Kara 9 tuổi 8. Hi n tại ông không có chứng cứ chứng minh là vợ ông còn giữ 9,5cây vàng 24 kara 9T8 này. Còn căn nhà mua được 13.000.000đ ng hi n nay đã bán với giá là 540.000.000đ và vợ ch ng ông đã cất lại một căn nhà mới trên nền nhà của cha vợ ông cho vợ ông, chiều ngang 2,5m, chiều dài 15m, con trai út của ông là Đinh Hậu G mới mua thêm chiều ngang 3,5m nên tổng cộng chiều ngang của căn nhà là 6m, chiều dài là 15m. Nhưng nhà chỉ cất chiều ngang có 4,5m và chiều dài 15m, tại khóm C, phường A, thành phố H, tỉnh Đ ng Tháp, do bà B đứng tên quyền sử dụng đất. Nên ông yêu cầu chia căn nhà chứ không yêu cầu, tranh chấp đất vì đất là của vợ và con trai ông. Do nay ông không có chứng cứ chứng minh bà Nguyễn Th B và con ông là bà Đinh Th H giữ số vàng 9,5 cây vàng 24 kara 9 tuổi 8 nên ông không yêu cầu gì về số vàng này nữa. Đối với yêu cầu chia đôi giá tr căn nhà bán được 540.000.000đ ng, ông được hưởng 270.000.000đ ng, số tiền này bà B đã đem đi cất căn nhà mà hi n nay đang tranh chấp (là căn nhà mà bà B và các con đang ở) nên nay ông thay đổi yêu cầu là yêu cầu bà B chia cho ông giá tr của căn nhà bà B đang ở là 200.000.000đ (Hai trăm tri u đ ng).
Ông thống nhất vi c thỏa thuận giá vào ngày 24/6/2024 (giá tr của căn nhà đang tranh chấp là 200.000.000đ ng và giá vàng 7.200.000đ ng).
Ngoài tài sản tranh chấp nêu trên vợ ch ng ông không còn tài sản chung nào khác.
- Bị đơn bà Nguyễn Thị B trình bày: Bà và ông Đinh Văn C sống chung làm vợ ch ng từ năm 1975 đến nay có được ba con đã trưởng thành. Nhưng đến đầu năm 2024 thì đã ly hôn. Trước đây khi chung sống gia đình ông C thuộc di n nghèo khó cha mẹ bà có hỗ trợ cho bà được hai công ruộng làm lúa. Cả hai vợ ch ng cùng đi làm thuê đủ vi c để mưu sinh. Đến năm 1995 bà và ch ng mới thống nhất bán hai công đất ruộng của cha mẹ bà cho và góp tiền dành dụm vô vùng sâu mua được 15 công đất tr ng lúa. Năm 2003 ch ng bà b nh tai biến gia đình làm lúa b thất mùa, nhà không còn vốn canh tác, không còn tiền để điều tr b nh cho ch ng. Ch ng b nh nặng nhiều nên nợ nhiều người cho nên bà bàn với ch ng là bán 15 công đất đó để điều tr b nh và trả nợ cho người ta. Đất bán được 12 lượng vàng 24 kara 9 tuổi 8. Khi có tiền thì bà trả nợ đóng lãi lo điều tr b nh cho ch ng, lúc đó các con còn nhỏ chưa làm gì có thu nhập, mọi chi phí trả nợ và than thuốc cứu mạng ch ng bà tiêu hết 06 lượng vàng thì ông C mới khỏi b nh. Sau đó số tiền còn lại vợ ch ng mua nhà ở hết 02 (hai) lượng vàng. Số vàng còn lại chi tiêu gia đình từ năm 2013 đến nay, thử hỏi ông C ăn uống chi tiêu trong gia
đình tất cả đều sử dụng đ ng tiền còn lại sinh hoạt trong gia đình, bản thân ông C đã b nh tai biến, người không khỏe mạnh không còn sức để lao động nhà không còn đất ruộng, mọi sinh hoạt lo cho gia đình đều trông cậy vào số tiền vàng ít ỏi còn lại cho đến nay đã không còn nữa, nhà thì xuống cấp không có tiền xây sửa lại nhà. Nên bà bán căn nhà cũ để lấy tiền xây lại nhà mới. Cha ruột bà cho bà nền nhà, con gái là Đinh Th H giữ tiền lo xây nhà mới để cho gia đình có chỗ ở ổn đ nh. Bà còn lao động được nên giữ cháu cho con bà đi làm công ty, nhà xây xong để cho ch ng bà ở giữ nhà. Ch ng bà có máu đỏ đen, số đề nên yêu cầu ly hôn với bà, yêu cầu chia tài sản để lấy tiền mua số đề. Bà thấu hiểu cũng đ ng ý ký giấy ly hôn để ch ng bà không còn hành hung bà nữa. Nay ông C và bà đều đã lớn tuổi nên trông cậy vào con cháu, căn nhà đang tranh chấp là chỗ ở duy nhất của bà và các con bà. Nay ông C có yêu cầu bà chia vàng hay chia giá tr căn nhà cho ông được hưởng 200.000.000đ ng thì bà không đ ng ý.
Bà thống nhất vi c thỏa thuận giá vào ngày 24/6/2024 (giá tr của căn nhà đang tranh chấp là 200.000.000đ ng và giá vàng 7.200.000đ ng).
Ngoài tài sản tranh chấp nêu trên vợ ch ng ông không còn tài sản chung nào khác.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Đinh Thị H vắng mặt nhưng có văn bản trình bày: Năm 2022 gia đình cha, mẹ bà thống nhất bán căn nhà đang ở để lấy tiền 540.000.000đ (chi trả cho người môi giới 10.000.000đ) nên còn lại: 530.000.000đ. Cha, mẹ bà xây nhà nơi khác (trên đất của ông ngoại bà cho) xây d ng lại nơi ở mới, nhà cửa khang trang kiên cố hơn. Vào ngày 29/04/2022 căn nhà xây d ng mới tổng cộng tiền xây d ng nhà bà có ghi li t kê chi phí như sau:
Tiền Cát đá tổng cộng là 114. 297.000đ. Tiền mua sát, tole tổng cộng là 80.431.000đ. Tiền mua vật tư thiết kế trong nhà là 59.920.000đ. Tiền cát đá lần 2 là 56.220.000đ. Tiền mua S là 52.542.000đ. Tiền mua T1 tole lợp nhà 41.490.000đ. Tiền Công Thợ và các chi phí khác là 118.040.000đ. Tổng cộng khi hoàn thành căn nhà là 522.940.000đ (Năm trăm hai mươi hai tri u chín trăm bốn mươi nghìn đ ng). Tiền bán căn nhà củ: 530.000.000đ - 522.940.000đ là 7.060.000đ (Bảy tri u không trăm sáu mươi nghìn đ ng). Bà đã bàn giao cho em trai út tên Đinh Hậu G ở trong nhà. Bà không còn giữ tiền gì của cha, mẹ nữa. Riêng vi c cha bà yêu cầu bà Nguyễn Th B chia đôi 12 lượng vàng 24 kara là không có cơ sở. Do cha bà lớn tuổi b b nh chưa khỏi hắn nên bà và mẹ bà thấu hiểu tâm lý của cha bà thường hay thay đổi. Bởi vì căn nhà cũ của cha bà nhiều năm hư hỏng xuống cấp không có tiền xây sửa lại nên bán căn nhà để người ta sử dụng nền nhà. Sau khi bán căn nhà cũ thì ông ngoại bà cho mẹ bà nền nhà khác để cha, mẹ bà cất lại nhà mới khang trang hơn. Do cá tính của cha bà có sở thích mua số đề, nên kiếm chuy n gây khó khăn cho mẹ bà, hành hung mẹ bà nhiều lần. Cha bà yêu cầu ly hôn với mẹ bà để được chia tài sản. Mẹ bà không thể chung sống nên cũng đ ng ý ly hôn cho cha bà hài lòng mà không còn hành hung mẹ bà nữa. Sau đó thì mẹ bà đi giữ cháu nội giúp con dâu đi làm công ty. Mọi sinh hoạt gia đình sau khi xây xong nhà thì để cho cha bà ở. Mẹ bà đi làm giúp phụ vi c giữ cháu nội cho con trai. Bà vẫn thường xuyên cung cấp thức ăn cho cha bà. Hi n nay cha, mẹ bà đều lớn tuổi người nào cũng mang b nh cần ổn đ nh tinh thần. Cha bà buộc mẹ
bà chia số tiền bán nhà và chia vàng là không có cơ sở giải quyết. Trước đây ngày 25/4/2024 bà có yêu cầu cha bà trả cho bà số tiền 20.000.000đ và lãi là 10.500.000đ ng thì nay bà không có yêu cầu gì đối với cha bà về số tiền này nữa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đinh Hậu G trình bày: Hi n căn nhà đang tranh chấp có ngu n gốc là cha mẹ ông đã bán căn nhà cũ với giá là 530.000.000đ ng r i mẹ ông mới xây lại căn nhà mới. Còn phần đất là 2,5m là được ông ngoại cho mẹ ông và ông mua di n tích đất ngang là 3,5m tổng cộng với chiều ngang là 6m. Phần đất ông cho mẹ ông đứng tên luôn phần đất ông đã mua. Tiền xây căn nhà và trang trí và tiền công tổng mọi chi tiêu tổng cộng là 522.940.000đ ng là từ ngu n tiền bán căn nhà cũ. Đối với yêu cầu của cha ông yêu cầu chia tài sản với mẹ ông thì ông không có ý kiến. Ông thừa nhận ch H có đưa cho tôi số tiền dư còn lại là 7.060.000đ ng (Bảy tri u không trăm sáu mươi nghìn đ ng) nhưng ông đã mua cừ đóng làm móng cho nền nhà đang tranh chấp là 20.000.000đ ng, ông còn bù vô thêm để đủ 20.000.000đ ng. Số tiền ông đã bù vào ông chỉ trình bày vậy thôi chứ không có yêu cầu gì trong vụ ki n này. Ông yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy đ nh pháp luật.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Đặng Thị Thúy H1 vắng mặt nhưng có văn bản trình bày: Bà là vợ của ông Đinh Hậu G nên bà thống nhất theo lời trình bày của ch ng bà, bà không yêu cầu và không trình bày bổ sung gì thêm.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành Hồng Ngự phát biểu ý kiến: Về vi c tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đ ng xét xử, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến trước khi Hội đ ng xét xử ngh án đã chấp hành đúng quy đ nh của Bộ luật Tố tụng dân s . Về vi c giải quyết vụ án: Xác đ nh tài sản chung giữa ông C và bà B là căn nhà đang tranh chấp hi n bà Nguyễn Th B đang ở. Căn cứ Điều 38, Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình. Đề ngh chấp nhận một phần yêu cầu khởi ki n của nguyên đơn ông Đinh Văn C. Buộc bà Nguyễn Th B phải có nghĩa vụ chia tài sản chung cho ông Đinh Văn C được hưởng phân nửa giá tr căn nhà là 100.000.000đ ng. Bà Nguyễn Th B được quyền tiếp tục quản lý, sử dụng căn nhà đang tranh chấp nói trên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài li u, chứng cứ đã thu thập được có trong h sơ, chứng cứ đã xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đ ng xét xử nhận đ nh:
[1] Về tố tụng: Đây là vụ ki n “Tranh chấp chia tài sản sau ly hôn” nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố H ng Ng , tỉnh Đ ng Tháp, được quy đ nh tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân s .
[2] Về s vắng mặt của đương s : Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Đinh Th H, bà Đặng Th Thúy H1; Người làm chứng ông Nguyễn Văn L, bà Trương Th Ngọc M Em đều vắng mặt, có đơn xin vắng mặt. Căn cứ Điều 227, Điều 228, Điều 229 Bộ luật Tố tụng Dân s , Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với các đương s nêu trên.
[3] Về nội dung vụ án: Xét yêu cầu của nguyên đơn ông Đinh Văn C yêu cầu bà Nguyễn Th B chia cho ông giá tr của căn nhà bà B đang ở là 200.000.000đ (Hai trăm tri u đ ng). Hội đ ng xét xử xét thấy:
[3.1] Ông C cho rằng ông không có chứng cứ chứng minh bà Nguyễn Th B và con ông là bà Đinh Th H giữ số vàng 9,5cây vàng 24 kara 9 tuổi 8 nên ông không yêu cầu gì về số vàng này. Do đó, Hội đ ng xét xử không xem xét, giải quyết.
[3.2] Đối với yêu cầu chia đôi giá tr căn nhà bán được 540.000.000đ ng, ông được hưởng 270.000.000đ ng, số tiền này bà B đã đem đi cất căn nhà mà hi n nay đang tranh chấp (là căn nhà mà bà B và các con đang ở) nên ông C thay đổi yêu cầu là yêu cầu bà B chia cho ông giá tr của căn nhà bà B đang ở là 200.000.000đ (Hai trăm tri u đ ng). Do đó, xác đ nh tài sản chung giữa ông C và bà B là căn nhà tạm di n tích 68,7m2 nằm trên phần đất đứng tên hộ bà Nguyễn Th B, di n tích 68,7m2 thửa 84, tờ bản đ 12, tại khóm C, phường A, thành phố N, tỉnh Đ ng Tháp.
[3.3] Vi c ông C yêu cầu bà B chia cho ông giá tr của căn nhà bà B đang ở là 200.000.000đ (Hai trăm tri u đ ng) là không có căn cứ bởi lẽ: Căn nhà đang tranh chấp được hình thành từ số tiền mà vợ ch ng ông C bán căn nhà cũ để lấy tiền xây căn nhà này. Theo các lời khai của các con ông C là bà H và ông Hậu G thì số tiền bán được căn nhà cũ sau khi cất lại căn nhà mới cũng còn dư một ít, nhưng do ông C b b nh tai biến, do cá tính của ông C có sở thích mua số đề nên kiếm chuy n gây khó khăn cho bà B, ông C hành hung bà bắt nhiều lần, mọi sinh hoạt gia đình sau khi xây xong nhà thì để cho ông C và bà B ở. Người làm chứng ông Nguyễn Văn L và bà Trương Th Ngọc M Em xác đ nh: Vợ ch ng ông C và bà B lúc trước nợ rất nhiều người, ông C là người hay chơi số đề nên không lo làm ăn, thời điểm ông C b b nh tai biến vợ ch ng ông C đã bán căn nhà cũ để trả nợ, lo chi phí b nh cho ông C, mới cất lại căn nhà đang ở hi n nay. Nhưng xét về ngu n gốc căn nhà đang tranh chấp là được hình thành từ số tiền mà vợ ch ng ông C, bà B bán căn nhà cũ để lấy tiền xây căn nhà này và thời điểm hình thành phần tai sản chung này thì ông C vẫn còn chung sống với bà B, quá trình hôn nhân vẫn đang t n tại. Do đó, nguyên tắc là phải chia đôi.
[3.4] Hi n nay trong căn nhà đang tranh chấp có các thành viên trong hộ g m: ông C, bà B và vợ ch ng con cái anh Hậu G đang ở. Ngoài căn nhà này ra thì các thành viên trong gia đình không có chỗ ở nào khác. Tại phiên toà, bà B thống nhất nhận căn nhà và giao trả cho ông C phân nửa giá tr căn nhà là 100.000.000đ ng. Ông Hậu G cũng thống nhất với ý kiến của bà B và cho rằng sẽ đi làm thuê hàng tháng để lấy tiền giao dần cho ông C chứ hi n nay gia đình đang gặp khó khăn về kinh tế, còn bà B thì lớn tuổi nên chỉ ở nhà trông cháu chứ không có làm gì được để tạo nên thu nhập mà giao trả tiền cho ông C.
[3.5] Vào ngày 24/6/2024, các đương s thống nhất thỏa thuận giá đối với căn nhà đang tranh chấp là 200.000.000đ ng.
[3.6] Hội đ ng xét xử xét thấy chấp nhận một phần yêu cầu khởi ki n của nguyên đơn ông Đinh Văn C. Buộc bà Nguyễn Th B có nghĩa vụ