Bản án số 20/2020/HSST ngày 10/01/2020 của TAND TP. Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 20/2020/HSST

Tên Bản án: Bản án số 20/2020/HSST ngày 10/01/2020 của TAND TP. Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Tội danh: 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Thanh Hóa (TAND tỉnh Thanh Hóa)
Số hiệu: 20/2020/HSST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 10/01/2020
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ: Không
Đính chính: Không
Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA- TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 20/2020/HSST NGÀY 10/01/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 03/2019/TLST- HS ngày 04 tháng 12 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2019 /QĐXXST-HS ngày 27 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo:

Phm Mạnh H - Sinh năm 1981; Nơi cư trú: L, phường B, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Chí M - sinh năm 1957 và bà Lê Thị M2 - sinh năm 1960; vợ: Trần Thị Tuyết V - sinh năm 1983; có 02 con, con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2016; tiền án: Không, tiền sự: Không. Bị tạm giữ ngày 07/9/2019; Tạm giam ngày 13/9/2019. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 22h30 ngày 06/9/2019, tổ công tác Công an phường Đ phối hợp với Phòng CSCĐ Công an tỉnh Thanh Hóa làm nhiệm vụ tại khu vực ngã ba B, đường H, phường Đ, thành phố T, tổ công tác dừng xe kiểm tra, lúc này H tự giác giao nộp 01 gói nilon màu trắng, kích thước khoảng (5x8)cm, bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng, H khai nhận đây là ma túy cất giấu để sử dụng. Cơ quan Công an đã lập biên bản và thu giữ gói tang vật trên cùng 01 xe moto Exciter màu đen, không biển kiểm soát do H điều khiển.

Tại bản Kết luận giám định số 2066/PC09 ngày 11/9/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Các hạt tinh thể màu trắng của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 4,971g, loại Methamphetamine.

Tại Cơ quan điều tra H khai nhận: Do nghiện ma túy nên khoảng 22h00 ngày 06/9/2019, H điều khiển xe một mình đến khu vực gầm cầu vượt B, phường Đ, thành phố T hỏi mua được của một nam thanh niên không quen biết 01 gói ma túy đá với giá 800.000đ. Sau đó H cất giấu số ma túy vừa mua được vào vành mũ phớt đội trên đầu rồi đi tìm nơi sử dụng. Khi đi đến đoạn ngã ba B, đường H, phường Đ, thành phố T thì bị Công an bắt quả tang, thu giữ tang vật.

Đối với nam thanh nên đã bán ma túy cho H, do H không biết tên, địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với chiếc xe moto thu giữ được của anh H, qua xác minh xe có biển kiểm soát 36B6-175.97 của anh Lê Phú X, sinh năm 1988, ở phố A, phường Đ, thành phố T cho anh Trần Văn Q, sinh năm 1989, ở C, phường Đ, thành phố T mượn. Sau đó anh Q cho H mượn xe. Anh Q và anh X không biết việc H mượn xe để đi mua ma túy. Do đó, ngày 02/12/2019, Cơ quan điều tra đã trả lại chếc xe cho chủ sở hữu là anh Lê Phú X.

Tại cáo trạng số 02/CT-VKS ngày 04/12/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa đã truy tố bị cáo Phạm Mạnh H về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa luận tội giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 điều 51; điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt Phạm Mạnh H từ 4 năm đến 4 năm 6 tháng tù. Đề nghị tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định là tang vật vụ án.

Bị cáo nhận tội, không có ý kiến bào chữa cho hành vi của mình và không tranh luận, chỉ xin xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Công an thành phố Thanh Hóa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến, không khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận: Khoảng 22h30’ ngày 06/9/2019, tại khu vực ngã ba B, đường H, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa, Phạm Mạnh H đang có hành vi tàng trữ 4,971g gam ma túy, loại: Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị công an phát hiện, bắt quả tang. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, cùng các tài liệu khác phản ánh trong hồ sơ. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi nêu trên của bị cáo Phạm Mạnh H đã cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là đúng pháp luật.

[3]. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy, xâm hại trật tự an toàn xã hội, là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác. Tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, cần phải xử lý nghiêm, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi cộng đồng xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục.

[4]. Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo không có tiền án, tiền sự. Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội. Căn cứ điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự, giảm nhẹ một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật, yên tâm cải tạo thành công dân tốt. Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, mua ma túy về sử dụng, do vậy không phạt tiền đối với bị cáo.

[5]. Về vật chứng: 4,578 gam Methamphetamine (tang vật còn lại sau giám định) cần tịch thu tiêu hủy theo điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[6]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 136 BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

n cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Mạnh H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Mạnh H 4 năm 6 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/9/2019.

Vt chứng: Tịch thu tiêu hủy 4,578 gam Methamphetamine được niêm phong tại phong bì của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa, có chữ ký, chữ viết của Nguyễn Trần Đăng, Trần Thị Thúy Hằng, Nguyễn Đức Thuận, Phạm Văn H.

Vật chứng trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa theo biên bản giao nhận vật chứng số: 47/THA ngày 06/12/2019 giữa Công an thành phố Thanh Hóa và Chi cục Thi hành án dân sự TP. Thanh Hóa.

Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí HSST.

Khi bản án có hiệu lực pháp luật, bị cáo có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7,9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất