Bản án số 06/2020/KDTM-ST ngày 15/06/2020 của TAND TP. Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang về các yêu cầu kinh doanh thương mại trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 06/2020/KDTM-ST

Tên Bản án: Bản án số 06/2020/KDTM-ST ngày 15/06/2020 của TAND TP. Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang về các yêu cầu kinh doanh thương mại trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng
Quan hệ pháp luật: Các yêu cầu kinh doanh thương mại trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Rạch Giá (TAND tỉnh Kiên Giang)
Số hiệu: 06/2020/KDTM-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 15/06/2020
Lĩnh vực: Kinh doanh thương mại
Áp dụng án lệ: Không
Đính chính: Không
Thông tin về vụ/việc: Hội đồng xét xử xét thấy mục đích các bên hướng đến khi ký kết hợp đồng là “để đầu tư khu du lịch sinh thái tại Mũi Ông Quới, bãi Đá Ong, xã Cửa Cạn, huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang”. Hợp đồng thể hiện nội dung Công ty TNHH SX-TM T&T đầu tư toàn bộ tiền để thực hiện dự án (Khoảng 9.000.000.000 đồng trả tiền mua đất, tiền thực hiện dự án khoảng 20.000.000.000 đồng) Công ty TNHH Biển T chịu trách nhiệm góp vốn bằng quyền sử dụng đất diện tích 15.000 m2 do Công ty TNHH Biển T đang quản lý sử dụng và 15.000 m2 do ông Ch và bà Y quản lý sử dụng, đồng thời Công ty TNHH Biển T chịu trách nhiệm tiến hành toàn bộ thủ tục hồ sơ xin cấp phép thực hiện dự án. Thời hạn thực hiện hợp đồng là 270 ngày kể từ ngày Công ty TNHH SX-TM T&T chuyển tiền tạm ứng đợt 1. Các bên ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh nhằm mục đích đầu tư sinh lợi, hợp đồng được ký kết trên cơ sở tự nguyện của các bên. Qúa trình làm việc tại Tòa, các đương S đều thừa nhận tại thời điểm ký kết hợp đồng cho đến khi nguY đơn thực hiện việc khởi kiện thì dự án nói trên là không có thật. Do dự án “Khu du lịch sinh thái” không có thật nên đối tượng mà các bên hướng đến trong việc hợp tác đầu tư không thể thực hiện được. Phía bị đơn cũng đồng ý chấm dứt hợp đồng, đồng ý hoàn trả cho nguY đơn số tiền 4.050.000.000 đồng và tiền lãi. Do đó, nguY đơn yêu cầu bị đơn đơn trả lại vốn góp là có cơ sở chấp nhận. Căn cứ Điều 411 của Bộ luật dân sự năm 2005, Hội đồng xét xử xét chấp nhận yêu cầu của nguY đơn, tuY bố hợp đồng góp vốn đầu tư là vô hiệu. Do hợp đồng góp vốn bị vô hiệu nên căn cứ Điều 137 của Bộ luật dân S năm 2005 để giải quyết. Căn cứ các tài liệu về việc chuyển tiền thông qua tài khoản ngân hàng của nguY đơn đối với bị đơn và sự xác nhận của các đương sự tại biên bản hòa giải của TAND thành phố Rạch Giá, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định tổng số tiền nguY đơn đã chuyển cho bị đơn là 4.050.000.000 đồng.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất