Bản án số 01/2020/HSST ngày 14/01/2020 của TAND huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 01/2020/HSST

Tên Bản án: Bản án số 01/2020/HSST ngày 14/01/2020 của TAND huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Tội danh: 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Vân Hồ (TAND tỉnh Sơn La)
Số hiệu: 01/2020/HSST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 14/01/2020
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ: Không
Đính chính: Không
Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V H - TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 01/2020/HSST NGÀY 14/01/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện VH, tỉnh Sơn La; Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 03/2019/TLST-ST ngày 18 tháng 12 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2020/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 01 năm 2020, đối với bị cáo:

Giàng A D, tên gọi khác: không, sinh năm 1962, tại huyện VH, tỉnh Sơn La. Trú tại: Bản P C, xã VH, huyện VH, tỉnh Sơn La. Giới tính: Nam, Tôn giáo: không; Đảng phái, đoàn thể: không. Quốc tịch: Việt Nam, Dân tộc: Mông; Trình độ văn hoá: Không biết chữ; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Con ông: Giàng A T và Tráng Thị M (đều đã chết); Bị cáo có vợ: Mùa Thị M, sinh năm 1974, bị cáo có 04 con, con lớn nhất sinh năm 1998, con nhỏ nhất sinh năm 2004.

Nhân thân: Ngày 25/3/2015, Tòa án nhân dân huyện VH, tỉnh Sơn La xử phạt 30 tháng tù về tội: Mua bán trái phép chất ma túy. Đã chấp hành xong án phí HSST ngày 08/5/2015, chấp hành xong án phạt tù ngày 06/02/2017.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 04 tháng 11 năm 2019 cho đến nay, có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 50 phút ngày 04/11/2019, qua tuyên truyền, vận động, tổ công tác Công an huyện VH thuyết phục Giàng A D tự khai nhận đang cất giấu trái phép chất ma túy trong buồng ngủ, đồng thời lấy ra 01 chiếc khò thổi gió bếp, bên trong ống dẫn có một chiếc tất màu đen đựng 152 viên nén màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có ký hiệu WY và khai nhận đó là Hồng Phiến đã tàng trữ mục đích để sử dụng cho bản thân. D khai nhận, do nghiện ma túy, khoảng 10 giờ ngày 04/11/2019 D đang đi bộ trên đường dân sinh Bản P C thì gặp một người đàn ông dân tộc Mông không biết địa chỉ giới thiệu tên là Pua, quốc tịch Lào. D hỏi mua và được Pua bán cho 01 túi nilon màu xanh đựng Hồng Phiến với giá 4.200.000 đồng. Mua được ma túy, D mang về nhà, cho vào một chiếc tất màu đen rồi nhét vào ống dẫn gió của một chiếc khò gió bếp. Khoảng 12h50 cùng ngày, sau khi nghe Tổ công tác Công an huyện VH tuyên truyền, vận động, Giàng A D đã tự giác vào buồng ngủ lấy số ma túy ra giao nộp cho Tổ công tác. Khám xét khẩn cấp nơi ở của Giàng A D, cơ quan điều tra không thu giữ gì thêm.

Cùng ngày, Cơ quan CSĐT Công an huyện VH đã tiến hành mở niêm phong, cân tịnh xác định khối lượng 152 viên nén màu hồng thu giữ của Giàng A D được 15,52 gam, lấy 0,5 gam làm mẫu giám định ký hiệu “D” gửi Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La giám định.

Tại kết luận giám định số: 1636 ngày 08/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã kết luận:“Mẫu gửi giám định ký hiệu D là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,5 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ được là 15,52 gam, loại Methamphetamine.” Cáo trạng số 02/CT-VKS ngày 17/12/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện VH, truy tố Giàng A D về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm g khoản 2 Điều 249 của BLHS. Tại phiên tòa, kiểm sát viên đề nghị HĐXX xem xét: Tuyên bố Giàng A D phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

*Áp dụng điểm g khoản 2 điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 BLHS.

Xử phạt Giàng A D từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù.

Không đề nghị áp dụng phạt bổ sung đối với bị cáo.

Áp dụng điều 47 BLHS, điều 106 BLTTHS: Tịch thu để tiêu hủy: 15,02 gam Methamphetamine và vỏ gói niêm phong ban đầu, 01 que thử ma túy đối với Giàng A D, 01 chiếc khò thổi gió bếp bằng kim loại màu đen và 01 chiếc tất vải màu đen đã qua sử dụng.

Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Ngày 04/11/2019 Giàng A D đã có hành vi mua và tàng trữ trái phép 15,52 gam Methamphetamine với giá 4.200.000 đồng, mục đích để sử dụng. Khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ đã vi phạm quy định tại điểm g khoản 2 điều 249 BLHS.

[2]. Tính chất hành vi của bị cáo: Bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng, xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, làm lây lan phát sinh các tệ nạn xã hội, phát sinh tội phạm, nhất là tội phạm về ma túy. Hành vi của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo có nhân thân xấu, nghiện ma túy, đã bị xử phạt tù về tội ma túy, đã từng được đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, nhận thức được hành vi tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình phạm tội, do vậy cần có mức hình phạt tù nghiêm khắc đối với bị cáo nhằm răn đe, giáo dục phòng ngừa chung.

[3]. Về hành vi, Quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra Công an huyện VH, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện VH, tỉnh Sơn La trong qua trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục Tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Do vậy, việc khởi tố, truy tố của CQĐT và VKS là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên tòa.

[4]. Về tình tiết giảm nhẹ TNHS: Quá trình điều tra tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, là người dân tộc thiểu số trình độ nhận thức hạn chế, tự giác giao nộp ma túy cho CQĐT, sống nơi có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 BLHS.

[5]. Về phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có tài sản có giá trị, là người nghiện ma túy và không có khả năng thi hành, không áp dụng phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Đối với nguồn gốc số ma túy: Bị cáo khai đã mua ma túy của một người đàn ông dân tộc Mông không biết địa chỉ, tên là Pua, Quốc tịch Lào. Cơ quan CSĐT không có căn cứ xử lý người bán ma túy cho Giàng A D, buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về khối lượng ma túy tàng trữ trái phép.

[7]. Về vật chứng của vụ án: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 15,02 gam Methamphetamine và vỏ gói niêm phong ban đầu, 01 que thử ma túy đối với Giàng A D, 01 chiếc khò thổi gió bếp bằng kim loại màu đen và 01 chiếc tất vải màu đen đã qua sử dụng là những vật bị cấm lưu hành hoặc không còn giá trị sử dụng, cần tuyên tịch thu tiêu hủy.

[9]. Về án phí: Bị cáo Giàng A D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

1. Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Giàng A D phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo 07 (Bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 04/11/2019.

Không áp dụng phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Tuyên tịch thu để tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 15,02 gam Methamphetamine và vỏ gói niêm phong ban đầu, 01 que thử ma túy đối với Giàng A D, 01 chiếc khò thổi gió bếp bằng kim loại màu đen và 01 chiếc tất vải màu đen đã qua sử dụng.

Theo biên bản giao nhận vật chứng số 24/BBVC –CCTHA, ngày 20 tháng 12 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện VH.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự. Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016 UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội. Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Giàng A D phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất