Quyết định số GIẢI/2025/QĐPT-DS ngày 27/05/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Quyết định GIẢI/2025/QĐPT-DS

Tên Quyết định: Quyết định số GIẢI/2025/QĐPT-DS ngày 27/05/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại Đà Nẵng
Số hiệu: GIẢI/2025/QĐPT-DS
Loại văn bản: Quyết định
Ngày ban hành: 27/05/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ngày 27 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 78/2025/TLPT-DS ngày 03 tháng 3 năm 2025 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu tháo dỡ công trình trái pháp luật; hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”. Do Bản án dân sự sơ thẩm số 66/2024/DS-ST ngày 17 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên bị kháng cáo.
Tóm tắt Quyết định

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số 222/2025/DS - PT
Ngày 27/5/2025
V/v “Tranh chp quyền s dụng
đất u cầu tháo dỡ ng
trình trái pháp lut; hủy Giy
chng nhn quyn s dng đt
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
ông Vũ Thanh Liêm
Võ Thị Ngọc Dung
Phan Thị Vân Hương
- Thư phiên tòa: ông Phạm Minh Hoàng, Thư a án nhân dân
cấp cao tại Đà Nẵng
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên
tòa: ông Nguyễn Thế Vinh, Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà
Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sthụ số 78/2025/TLPT-DS
ngày 03 tháng 3 năm 2025 về việc Tranh chấp quyền sdụng đất yêu cầu
tháo dỡ công trình trái pháp luật; hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 66/2024/DS-ST ngày 17 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1331/2025/QĐ-PT ngày 12 tháng
5 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Đoàn Văn H, sinh năm 1946; Địa chỉ: thôn H, X,
thị xã S, tỉnh Phú Yên, vắng mặt
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Huỳnh Thị L, sinh
năm 1982; Địa chỉ: thôn H, xã X, thị xã S, tỉnh Phú Yên, có mặt.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Trịnh Bình
T, luật sư, Văn phòng L2 thuộc Đoàn luật sư tỉnh P; Địa chỉ: Số G N, phường E,
thành phố T, tỉnh Phú Yên, có mặt.
2
2. Bị đơn: Vợ chồng ông Nguyễn Văn H1, sinh năm 1964, bà Nguyễn Thị
H2, sinh năm 1968; Địa chỉ: thôn L, X, thị xã S, tỉnh Phú Yên, ông H1
mặt.
Người đại diện theo y quyền của bị đơn: Ông Huỳnh Văn D, sinh năm
1973; Địa chỉ: Khu phố C, phường X, thị xã S, tỉnh Phú Yên, có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ủy ban nhân dân thị xã S, tỉnh Phú Yên, vắng mặt.
- Ủy ban nhân dân xã X, thị xã S, tỉnh Phú Yên, vắng mặt.
- Mạc Thị A, sinh năm 1949; Địa chỉ: thôn H, X, thị S, tỉnh Phú
Yên, vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của A: Ông Đoàn Xuân Q, sinh năm
1980; Địa chỉ: thôn H, xã X, thị xã S, tỉnh Phú Yên, có mặt.
Người kháng cáo: nguyên đơn ông Đoàn Văn H bị đơn ông Nguyễn
Văn H1, bà Nguyễn Thị H2.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, quá trình tố tụng, luật sư Trịnh Bình T, nguyên đơn
ông Đoàn Văn H do người được ủy quyền Huỳnh Thị L, người quyền lợi
nghĩa vụ liên quan Mạc Thị A do người đại diện theo ủy quyền ông
Đoàn Xuân Q thống nhất trình bày: Ông Đoàn Văn H được thừa hưởng của ông
nội Đoàn T1 diện tích đất khoảng 2400m
2
tọa lạc tại thôn L, X, thị S, tỉnh
Phú Yên theo cựu văn khế lập năm 1935. Do không điều kiện canh tác nên
gia đình ông H cho gia đình ông H1 thuê toàn bộ thửa đất này, mỗi năm trả hoa
màu cho gia đình ông H. Năm 1991, gia đình ông H1 tự ý xây dựng nhà trên đất
thuê mà gia đình tôi không biết. Năm 2012, khi biết được việc xây nhà trái phép
của gia đình ông H1, ông H yêu cầu UBND xã X hòa giải. Tại buổi hòa giải ông
H1 cũng đã thừa nhận việc thuê đất, ông H thống nhất cho ông H1 200m
2
để xây
dựng lại nông H1 phải trả lại cho ông H diện tích đất thuê còn lại. Khi
Nhà nước tiến hành bồi thường, ông H1 nhận tiền bồi thường nhưng giao lại
hết cho ông H và ông H cho lại ông H1 5.000.000đ.
Năm 2014, ông H kê khai, đăng ký QSDĐ nêu trên và được UBND thị xã
S cấp GCNQSDĐ số BV 340756 ngày 13/02/2015 diện tích 1174,1m
2
, còn lại
diện tích 1222,1m
2
do gia đình ông Nguyễn Văn H1 đang sử dụng nên chưa
được cấp GCNQSDĐ có giới cận: Bắc giáp đường bê tông nông thôn, Nam giáp
đất ông H, Đông giáp đất nhà ông Nguyễn Văn A1 ông Nguyễn Văn N,
Tây giáp đường tông Lệ U Bình Thạnh N (đường vào bãi rác) thuộc thửa
đất số 337, tờ bản đồ số 18-ĐC.
Năm 2016, gia đình ông H1 lại tiếp tục xây dựng, ông H tiếp tục khiếu
nại đến UBND xã X, được hòa giải không thành nên ông H khởi kiện yêu cầu:
3
- Buộc vợ chồng ông H1, H2 trả lại diện tích đất 1222,1m
2
thuộc thửa
đất số 337, tờ bản đồ số 18-ĐC tọa lạc tại thôn L, xã X, thị xã S, tỉnh Phú Yên.
- Buộc vợ chồng ông H1, H2 tháo dỡ toàn bộ công trình xây dựng trái
phép trên đất thuộc quyền sử dụng của ông H.
Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn, đối với diện tích
đất ông H đã được cấp GCNQSDĐ, phía bị đơn đưa ra yêu cầu hủy Giấy
CNQSDĐ sau khi TAND thị Sông Cầu đã quyết định đưa vụ án ra xét xử
nên yêu cầu Tòa không chấp nhận xem xét giải quyết. Đối với diện tích đất
tranh chấp với bị đơn là nằm trong chung thửa đất nguồn gốc của gia đình
ông H (một phần diện tích đã được cấp GCN) nên yêu cầu Tòa công nhận thuộc
quyền sử dụng của ông H.
Quá trình giải quyết vụ án, tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn ông Nguyễn Văn
H1, bà Nguyễn Thị H2 cùng người đại diện y quyền ông Huỳnh Văn D thống
nhất trình bày:
Toàn bộ thửa đất số 337, tờ bản đồ số 18-ĐC gồm: diện tích 1174,1m
2
ông H đã được UBND thị xã S cấp GCNQSDĐ số BV 340756 ngày 13/02/2015
diện tích 1222,1m
2
chưa được cấp GCNQSDĐ giới cận: Bắc giáp đường
tông nông thôn đất ông Nguyễn Văn L1, Nam giáp đất ông Nguyễn H3,
Đông giáp đất nhà ông Nguyễn Văn A1 ông Nguyễn Văn N, Tây giáp
đường bê tông Lệ U Bình Thạnh N ường vào bãi rác) hiện ông H tranh chấp
với gia đình ông H1 nguồn gốc đất do Hợp tác K2 giao khoán cho
viên đầu tiên Trần K (chồng Phạm Thị T2), sau đó ông K không làm giao
lại cho Ngô X, sau ông X giao đất lại cho HTX rồi HTX giao lại đất cho Lê Văn
C nhưng ông C đổi đất này cho ông Đ sử dụng, khoảng năm 1989, ông
giao lại cho vợ chồng tôi sử dụng. Tài liệu giấy về việc đất này do HTX quản
và giao cho xã viên sử dụng là không có nhưng được xã viên của HTX xác nhận
cho tôi. Vchồng tôi sdụng đất ổn định từ năm 1989 đến nay, nộp thuế đầy
đủ cho nhà nước, không có ai tranh chấp, có đăng ký kê khai, có tên trong sổ địa
chính, trích lục bản đồ nên khi Nhà nước bồi thường khi thu hồi đất làm đường
bãi rác thì tôi ký nhận tiền bồi thường 02 đợt, đợt 1 18.000.000đ tôi nhận hết,
đợt 2 nhận 10.000.00thì tôi đưa ông H 5.000.000đ, tôi nhận 5.000.000đ, lời
khai tại biên bản hòa giải ngày 02/01/2020 tôi khai nhận tiền bồi thường giao
hết cho ông H rồi ông H cho lại tôi 5.000.000đ là không chính xác.
Qua xem xét hồ cấp GCNQSDĐ của ông H ghi “không giấy tờ về
đất”, giấy tờ cũ mà ông H dùng để kiện có giới cận không trùng với giới cận đất
hiện nay, bản thân ông H không h sử dụng đất nhưng Nhà nước cấp
GCNQSDĐ cho ông H sai. Do đó, bên bị đơn yêu cầu phản tố, yêu cầu
Tòa xem xét hủy GCNQSDĐ của ông H công nhận cho bị đơn được quyền
4
sử dụng toàn bộ thửa đất số 337, tờ bản đồ số 18-ĐC tổng diện tích đất
2396,2m
2
.
Quá trình giải quyết vụ án, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình
bày:
1. Tại các Công văn số 1763/TNMT ngày 01/12/2017, số 290/UBND
ngày 22/02/2021, số 239/UBND ngày 22/02/2022 của UBND thị xã S cung cấp:
Diện tích đất 2401,2m
2
tọa lạc tại thôn L, X, thị S, tỉnh Phú Yên các bên
đang tranh chấp thuộc thửa đất số 337, tờ bản đồ số 18-ĐC đo đạc năm 2012,
trong đó phần diện tích 1174,1m
2
loại đất HNK được UBND thị S cấp Giấy
CNQSDĐ số BV 340756 ngày 13/02/2015 cho ông Đoàn Văn H, phần diện tích
còn lại 1227,1m
2
chưa được cấp Giấy CNQSDĐ cho ai. Theo bản đồ đo đạc
năm 2003, 2012 thửa đất trên được quy ch cho ông Nguyễn Văn H1. Tuy
nhiên, ông Nguyễn Văn H1 chỉ người thuê đất nhờ trên đất của ông
Đoàn Văn H (Công văn số 650/UBND ngày 24/6/2020 của UBND xã X). Vậy
nên UBND X đã tổ chức họp xét nguồn gốc đất trình UBND thị S
cấp Giấy CNQSDĐ diện tích 1174,1m
2
cho ông H đúng.
2. Tại Công văn số 462/UBND ngày 07/5/2018, số 650/UBND ngày
24/6/2020 các biên bản xác minh, Ủy ban nhân dân X cung cấp các nội
dung mâu thuẫn đến Công văn số 824/UBND ngày 30/8/2024, ghi ý kiến:
Theo kết quả thẩm tra, xác minh thì thửa đất số 337, tờ bản đồ số 18-ĐC trước
năm 1975 do ông của ông Đoàn Văn H quản lý, sử dụng, sau đó giao lại
cho Thị M (mẹ ông H) sử dụng. Từ sau năm 1975 đến 1990 do Nhà nước
quản đưa vào Hợp tác kinh doanh dịch vụ Tổng hợp nông nghiệp X,
HTX giao khoán cho một số hộ gia đình s dụng (Nguyễn C1, Ngô X,
Nguyễn K1, sau đó khoán lại cho ông Đỗ Ứng . Khoảng năm 1988 1990, ông
Đỗ cho ông Nguyễn Văn H1 thuê lại. Đến năm 1991, ông H1 lấn, chiếm tự ý
xây dựng nhà ở, quản sử dụng liên tục ổn định từ đó cho đến nay. Tuy
nhiên, trong quá trình quản hồ lưu trữ qua nhiều năm hiện nay không
giấy tờ để cung cấp. Thực tế từ sau năm 1975, hộ ông Đoàn Văn H không s
dụng thửa đất này, không kê khai đăng ký. Ông Nguyễn Văn H1 người đăng
ký, khai, sổ địa chính, sổ ngoại đều quy chủ ông Nguyễn Văn H1, hàng
năm có nộp thuế nhà đất cho Nhà nước, thể hiện: Theo Bản đồ địa chính đo đạc
năm 1991 thửa số 211, tbản đồ số 1-299TTg, diện tích 2200m
2
, loại đất
ĐM; Theo bản đồ địa chính đo năm 2003 thửa số 337, tờ bản đồ số 18-ĐC,
diện tích 2400m
2
, loại đất ONT; Theo bản đồ địa chính đo năm 2012 thửa số
337, tờ bản đồ số 18-ĐC, diện tích 2401,2m
2
, loại đất ONT.
Tại Bản án dân sự thẩm số 66/2024/DS-ST ngày 17 tháng 9 năm
2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên đã quyết định:
5
Căn cứ vào các Điều 34, 147, 157, 165 của BLTTDS năm 2015; Điều 32
Luật Tố tụng hành chính.
Áp dụng các Điều 100, 106, 166, 170 của Luật Đất đai năm 2013, các
Điều 163, 164, 166 của BLDS năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30.12.2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Đoàn Văn H
về công nhận cho ông H được quyền sử dụng diện tích đất đo đạc thực tế
1222,1m
2
(hiện trạng loại đất ONT +CLN trong đó 248.3m
2
đất thuộc hành
lang giao thông) và buộc bị đơn ông Nguyễn Văn H1, Nguyễn Thị H2 phải
tháo dỡ các công trình gắn trên đất thuộc một phần thửa đất số 337, tờ bản đồ số
18-ĐC tọa lạc tại thôn L, X, thị S, tỉnh Phú Yên giới cận: Bắc giáp
đường mòn (lối đi), Nam giáp phần đất đã cấp GCN cho ông H, Đông giáp đất
ông Nguyễn Văn N (thửa 339) và đất ông Nguyễn Văn A1 (thửa 372), Tây giáp
đường tông Bình Thạnh N - L (Mảnh đo đạc chỉnh bản đồ số 09-2021 do
Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai th S thực hiện ngày 05/4/2021
(BL296) và biên bản xem xét tại chỗ ngày 16/6/2021 (BL376).
2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn ông Nguyễn Văn H1,
Nguyễn Thị H2: Công nhận bị đơn được quyền sdụng diện tích đất đo đạc
thực tế 1222,1m
2
(hiện trạng loại đất ONT +CLN trong đó có 248.3m
2
đất thuộc
hành lang giao thông) thuộc một phần thửa đất số 337, tờ bản đồ số 18-ĐC tọa
lạc tại thôn L, xã X, thị xã S, tỉnh Phú Yên có giới cận: Bắc giáp đường mòn (lối
đi), Nam giáp phần đất đã cấp GCN cho ông H, Đông giáp đất ông Nguyễn Văn
N (thửa 339) đất ông Nguyễn Văn A1 (thửa 372), Tây giáp đường tông
Bình Thạnh N - L (Mảnh đo đạc chỉnh bản đồ số 09-2021 do Chi nhánh Văn
phòng đăng đất đai thị S thực hiện ngày 05/4/2021 (BL296) biên bản
xem xét tại chỗ ngày 16/6/2021 (BL376). Ông H1, bà H2 được quyền liên hệ cơ
quan chức năng để đăng ký cấp Giấy CNQSDĐ đối với diện tích đất nêu trên.
Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn về việc: Hủy giấy chứng
nhận QSD đất số BV 340756 ngày 13/02/2015 cấp cho ông Đoàn Văn H
công nhận QSDĐ đối với diện tích đất 1174,1m
2
(đo đạc thực tế 1080,7m
2
)
giới cận: Đông giáp đất ông Nguyễn Văn A1 (thửa 372), Tây giáp đường
tông L- Bình Thạnh N, Nam giáp đường tông, Bắc giáp phần diện ch đất
tranh chấp (1222,1m
2
) nhà ở, vật kiến trúc và cây trồng của vợ chồng ông
H1, bà H2 (Mảnh đo đạc chỉnh lý bản đồ số 70-2024 do Văn phòng đăng ký đất
đai tỉnh P thực hiện ngày 10/6/2024 biên bản xem xét tại chỗ ngày
21/5/2024).
6
Ngoài ra, bản án thẩm còn quyết định vphần án phí, chi phí xem xét
thẩm định tại chỗ, định giá tài sản quyền kháng cáo theo quy định của pháp
luật.
- Ngày 22/9/2024, nguyên đơn ông Đoàn Văn H đơn kháng cáo cho
rằng, bản án thẩm xét xử không đúng pháp luật, gây thiệt hại nghiêm trọng
đến quyền lợi hợp pháp gia đình ông nên yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm chấp
nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không chấp nhận yêu cầu phản
tố của bị đơn; buộc vợ chồng ông Nguyễn Văn H1 tháo dỡ nhà ở, công trình trên
đất (phần đất chưa cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) trả lại toàn bọ diện
tích đất mà vợ chồng ông H1 đã lấn chiếm.
- Ngày 30/9/2024, bị đơn ông Nguyễn Văn H1, Nguyễn Thị H2
đơn kháng cáo một phần bản án thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy
Giấy chứng nhận quyển sử dụng đất đã cấp cho ông H công nhận quyền s
dụng đất với diện tích 1.174,1m
2
(đo thực tế 1.080,7m
2
) thuộc quyền sử dụng
của vợ chồng ông H1.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn ông Đoàn Văn H do Huỳnh Thị
L đại diện theo ủy quyền giữ nguyên nội dung đơn khởi kiện yêu cầu kháng
cáo. Bị đơn ông Nguyễn Văn H1, Nguyễn Thị H2 do ông Huỳnh Văn D đại
diện theo ủy quyền giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Các đương sự không thỏa
thuận được với nhau vviệc giải quyết vụ án. Huỳnh Thị L cũng như người
bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho phía nguyên đơn cho rằng, Tòa án cấp
thẩm giải quyết vụ án không đúng pháp luật, gây thiệt hại nghiêm trọng đến
quyền lợi ích hợp pháp của gia đình ông Đoàn Văn H nên yêu cầu Tòa án cấp
phúc thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; Không chấp
nhận yêu cầu phản tố của bị đơn; buộc vợ chồng ông Nguyễn Văn H1 tháo dỡ
nhà công trình trên đất (phần đất chưa cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất) trả lại cho ông H toàn bdiện tích đất vợ chồng ông H1 đã lấn chiếm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, phía nguyên đơn thay đổi không buộc phía bị đơn tháo
dỡ tài sản phía nguyên đơn bồi thường cho phía bị đơn. Ông Huỳnh Văn D
cho rằng, phía bị đơn kháng cáo một phần bản án thẩm; yêu cầu Tòa án cấp
phúc thẩm hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Đoàn Văn H
công nhận quyền sử dụng đất với diện tích 1.174,1m
2
(đo thực tế
1.080,7m
2
) thuộc quyền sử dụng của vợ chồng ông Nguyễn Văn H1.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng cho rằng, về phần
thủ tục tố tụng giai đoạn xét xử phúc thẩm đảm bảo đúng quy định pháp luật,
đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Đoàn
Văn H kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn H1, Nguyễn Thị H2 giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
7
Căn cứ các tài liệu trong hồ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn
cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:
1. Xét kháng cáo của nguyên đơn ông Đoàn Văn H kháng cáo của bị
đơn ông Nguyễn Văn H1, bà Nguyễn Thị H2 thì thấy:
- Đối với phần diện tích đất của ông Đoàn Văn H: Gia đình ông H chỉ sử
dụng phần diện tích đất 1.174,1m
2
, ông H đã khai, đăng ngày
13/02/2015 đã được y ban nhân dân thị S cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số BV 340756 (đo đạc thực tế là 1.080,7m
2
).
- Đối với phần diện tích đất của vợ chồng ông Nguyễn Văn H1: Trước
năm 1975, cha ông H1 làm thuê cho gia đình ông H. Sau năm 1975 sử dụng cho
đến nay với diện tích do đạc thực tế 1.222,1m
2
. Mặc chưa được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng gia đình ông H1 đã xây nhà ở, đã đăng
ký, khai thể hiện tại bản đồ địa chính đo đạc năm 1991 thửa đất số 211, tờ
bản đố số 1-299 TTg, diện tích 2.200m
2
lại đất ĐM; bản đồ địa chính đo đạc
năm 2003 thửa đất số 337, tbản đồ số 18-ĐC, diện tích 2.400m
2
, loại đất
ONT; bản đđịa chính đo đạc năm 2012 thửa đất số 337, tờ bản đồ số 18-
ĐC, diện tích 2.401,2m
2
loại đất ONT. Quá trình sử dụng đất, vợ chồng ông H1
đã nộp thuế cho Nhà nước.
Do đó, bản án thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn ông Đoàn Văn H về việc công nhận cho ông H được quyền sử dụng đất đo
đạc thực tế số 1.222,1m
2
; chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Nguyễn
Văn H1, Nguyễn Thị H2 về việc công nhận cho bị đơn diện tích đất
1222,1m
2
; không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn về việc hủy Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Đoàn Văn H công nhận quyền sử
dụng đất đối với diện tích 1.174,1m
2
(đo đạc thực tế 1080,7m
2
) cho ông Đoàn
Văn H hoàn toàn căn cứ, đúng pháp luật. Trong giai đoạn xét xử phúc
thẩm, các đương sự kháng cáo nhưng không cung cấp tài liệu, chứng cứ
mới nên không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Đoàn Văn H và kháng
cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn H1, Nguyễn Thị H2, giữ nguyên bản án
thẩm.
2. Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên đương sự kháng
cáo phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
3. Những phần quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo,
kháng nghị nên không xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;
8
1. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Đoàn Văn H
kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn H1, Nguyễn Thị H2, ginguyên bản
án sơ thẩm
Áp dụng các Điều 34, 147, 157, 165 của BLTTDS năm 2015; Điều 32
Luật Tố tụng hành chính; các Điều 100, 106, 166, 170 của Luật Đất đai năm
2013, Điều 163, 164, 166 của BLDS năm 2015; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án
phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Đoàn Văn H
về công nhận cho ông H được quyền sử dụng diện tích đất đo đạc thực tế
1222,1m
2
(hiện trạng loại đất ONT +CLN trong đó 248.3m
2
đất thuộc hành
lang giao thông) và buộc bị đơn ông Nguyễn Văn H1, Nguyễn Thị H2 phải
tháo dỡ các công trình gắn trên đất thuộc một phần thửa đất số 337, tờ bản đồ số
18-ĐC tọa lạc tại thôn L, X, thị S tỉnh Phú Yên giới cận: Bắc giáp
đường mòn (lối đi), Nam giáp phần đất đã cấp GCN cho ông H, Đông giáp đất
ông Nguyễn Văn N (thửa 339) và đất ông Nguyễn Văn A1 (thửa 372), Tây giáp
đường tông Bình Thạnh N - L (Mảnh đo đạc chỉnh bản đồ số 09-2021 do
Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai th S thực hiện ngày 05/4/2021
(BL296) và biên bản xem xét tại chỗ ngày 16/6/2021 (BL376).
- Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn ông Nguyễn Văn H1,
Nguyễn Thị H2: Công nhận bị đơn được quyền sdụng diện tích đất đo đạc
thực tế 1222,1m
2
(hiện trạng loại đất ONT +CLN trong đó có 248.3m
2
đất thuộc
hành lang giao thông) thuộc một phần thửa đất số 337, tờ bản đồ số 18-ĐC tọa
lạc tại thôn L, xã X, thị xã S tỉnh Phú Yên có giới cận: Bắc giáp đường mòn (lối
đi), Nam giáp phần đất đã cấp GCN cho ông H, Đông giáp đất ông Nguyễn Văn
N (thửa 339) đất ông Nguyễn Văn A1 (thửa 372), Tây giáp đường tông
Bình Thạnh N - L (Mảnh đo đạc chỉnh bản đồ số 09-2021 do Chi nhánh Văn
phòng đăng đất đai thị S thực hiện ngày 05/4/2021 (BL296) biên bản
xem xét tại chỗ ngày 16/6/2021 (BL376). Ông H1, bà H2 được quyền liên hệ cơ
quan chức năng để đăng ký cấp Giấy CNQSDĐ đối với diện tích đất nêu trên.
- Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn về việc: Hủy giấy chứng
nhận QSD đất số BV 340756 ngày 13/02/2015 cấp cho ông Đoàn Văn H
công nhận QSDĐ đối với diện tích đất 1174,1m
2
(đo đạc thực tế 1080,7m
2
)
giới cận: Đông giáp đất ông Nguyễn Văn A1 (thửa 372), Tây giáp đường
tông L- Bình Thạnh N, Nam giáp đường tông, Bắc giáp phần diện ch đất
tranh chấp (1222,1m
2
) nhà ở, vật kiến trúc và cây trồng của vợ chồng ông
H1, bà H2 (Mảnh đo đạc chỉnh lý bản đồ số 70-2024 do Văn phòng đăng ký đất
9
đai tỉnh P thực hiện ngày 10/6/2024 biên bản xem xét tại chỗ ngày
21/5/2024).
2. Về án phí: Ông Đoàn Văn H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự
phúc thẩm; ông Nguyễn Văn H1, Nguyễn Thị H2 phải chịu 300.000 đồng án
phí dân sự phúc thẩm; được trừ số tiền ông H đã nộp 300.000 đồng ông H1,
H2 đã nộp 300.000 đồng tại các biên thu tiền số 0004584 ngày 28/10/2024
và số 0006855 ngày 29/10/2024 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên.
3. Các quyết định khác của bản án thẩm về phần án phí, chi phí xem
xét thẩm định tại chỗ, chi phí định giá không kháng cáo, kháng nghị đã
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- TAND tỉnh Phú Yên;
- VKSND tỉnh Phú Yên;
- Cục THADS tỉnh Phú Yên;
- Các đương sự;
- Lưu HSVA, PHCTP, LT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Vũ Thanh Liêm
Tải về
Quyết định số GIẢI/2025/QĐPT-DS Quyết định số GIẢI/2025/QĐPT-DS

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Quyết định số GIẢI/2025/QĐPT-DS Quyết định số GIẢI/2025/QĐPT-DS

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Quyết định cùng lĩnh vực

Quyết định mới nhất