Quyết định số 76/2019/QĐPT-DS ngày 27/03/2019 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp quyền sử dụng rừng và đất rừng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Quyết định số 76/2019/QĐPT-DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Quyết định 76/2019/QĐPT-DS
Tên Quyết định: | Quyết định số 76/2019/QĐPT-DS ngày 27/03/2019 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp quyền sử dụng rừng và đất rừng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng rừng và đất rừng |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Cà Mau |
Số hiệu: | 76/2019/QĐPT-DS |
Loại văn bản: | Quyết định |
Ngày ban hành: | 27/03/2019 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ông Nguyễn Văn H1 yêu cầu công nhận 2216m2 đất là của gia đình ông nhận khoán |
Tóm tắt Quyết định
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
Bản án số: 76 /2019/DS-PT
Ngày: 27- 3- 2019
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Phạm Việt Trung
Các Thẩm phán: Ông Hồ Minh Tấn
Ông Huỳnh Văn Út
- Thư ký phiên tòa: Bà Hứa Như Nguyện là Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Cà Mau.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên tòa: Ông
Phạm Văn Hùng - Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 17/2019/TLPT-DS ngày 07 tháng 01
năm 2019 về việc: Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 70/2018/DS-ST ngày 19 tháng 11 năm 2018
của Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hiển bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 52 /2019/QĐ-PT ngày
12 tháng 02 năm 2019 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn H1, sinh năm 1951;
Địa chỉ cư trú tại ấp N, xã T, huyện N, tỉnh C.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: ông Phan Hoàng B, sinh năm
1959 cư trú tại khóm 8, phường 5, thành phố C (Có mặt)
- Bị đơn: Ông Nguyễn Tấn H2, sinh năm 1958;
Địa chỉ cư trú tại ấp N, xã T, huyện N, tỉnh C (Có mặt)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Bà Huỳnh Mỹ Sự, trợ
giúp viên pháp lý thuộc Chi nhánh trợ giúp pháp lý số 01 Trung tâm trợ giúp pháp
lý tỉnh Cà Mau (Có mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Trần Văn T1, sinh năm 1983 (Vắng mặt).
2. Chị Nguyễn Thị L2, sinh năm 1980 (Vắng mặt).
3. Bà Phạm Thị L1, sinh năm 1954 (Vắng mặt).
2
4. Bà Lý Kim N1, sinh năm 1962 (Vắng mặt).
Cùng địa chỉ cư trú tại ấp N, xã T, huyện N, tỉnh C.
5. Anh Nguyễn U, sinh năm 1982(Có mặt)
Địa chỉ cư trú tại khóm 5, phường 4, thành phố C
6. Chị Nguyễn Mỹ H3, sinh năm 1984 ( Vắng mặt)
Địa chỉ cư trú tại khóm 7, thị trấn N, huyện N, tỉnh C
7. Chị Nguyễn Kim H4, sinh năm 1986; cư trú tại hẻm phường A, quận N,
thành phố C (Vắng mặt).
8. Anh Nguyễn Chí T2, sinh năm 1988 (Vắng mặt).
9. Anh Nguyễn Phương N2, sinh năm 1992 (Vắng mặt).
Cùng địa chỉ cư trú tại khóm 7, thị trấn N, huyện N, tỉnh C.
10. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên lâm nghiệp Ngọc Hiển.
Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện N, tỉnh C . Người đại diện hợp pháp: ông Phạm
Ngọc H , sinh năm 1963 (Có mặt )
- Người kháng cáo: Ông Nguyễn Tấn H2 là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Nguyên đơn ông Nguyễn Văn H1 trình bày: Ông có phần đất diện tích tại
ấp N, xã T, huyện N, tỉnh C đã được Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
lâm nghiệp Ngọc Hiển xác lập hồ sơ giao nhận khoán rừng và đất rừng sản xuất
vào năm 2015 do ông đứng tên tại các thửa số 135 và số 138, khoảnh 16, tiểu khu
154 gia đình ông quản lý sử dụng và có tranh chấp với ông Nguyễn Tấn H2 về
ranh giới. Nay ông yêu cầu công nhận phần diện tích đất tranh chấp đo đạc
2.216,7m
2
tại ấp N, xã T, huyện N, tỉnh C thuộc quyền sử dụng nhận khoán của hộ
gia đình ông theo vị trí ông xác định dọc theo bờ đất vuông tiếp giáp với phần đất
ông H2 sử dụng theo sơ đồ đo đạc thực tế từ vị trí M24 đến M25; từ M20 đến M19
và M16; từ M16 đến M14; từ M14 đến M13; từ M13 đến M11, M10 và M9; từ M9
đến M12 và M13; từ M13 đến M15; từ M15 đến M17; từ M17 đến M18 và M21;
từ M22 đến M23.
- Bị đơn ông Nguyễn Tấn H2 trình bày: Năm 1988 khi có chủ trương giao
đất, giao rừng của Nhà nước thì ông có làm thủ tục để nhận đất rừng với tổng diện
tích được giao là 13ha tại rạch Kinh Cùng thuộc ấp Tam Hiệp, xã Tân Ân nay là ấp
N, xã T, huyện N, tỉnh C. Gia đình ông đã thuê mướn và trực tiếp đào làm vuông
khoảng 10,5ha phần diện tích còn lại trồng rừng theo chủ trương chung và đã được
Ban quản lý bảo vệ và phát triển rừng 13/12 cấp sổ hợp đồng giao khoán đất lâm
nghiệp do ông đứng tên vào năm 1994 hiện tại đã được chuyển giao cho Công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên lâm nghiệp Ngọc Hiển quản lý. Quá trình sử
dụng phía gia đình ông H1 đã lấn chiếm ranh giới và xảy ra tranh chấp nhưng
không giải quyết được, trước yêu cầu của ông H1 đặt ra ông không thừa nhận vì
3
ông cho rằng phần diện tích đất ông H1 yêu cầu thuộc quyền nhận khoán của hộ
gia đình ông.
- Đối với bà Lý Kim N1 là vợ ông H2 và các con ông H2 gồm anh Nguyễn
U, chị Nguyễn Mỹ H3, chị Nguyễn Kim H4, anh Nguyễn Chí T2 đều có đơn đề
nghị vắng mặt và không có ý kiến yêu cầu gì.
- Anh Nguyễn Phương N2 thống nhất với lời trình bày của ông H2, ngoài ra
không có yêu cầu gì khác.
- Anh Trần Văn T1 thống nhất theo ý kiến của ông Nguyễn Văn H1.
- Bà Phạm Thị L1 và chị Nguyễn Thị L2 có đơn vắng mặt và không có yêu
cầu gì.
- Tại văn bản ngày 08 tháng 10 năm 2018, Công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên lâm nghiệp Ngọc Hiển xác định Công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên lâm nghiệp Ngọc Hiển xác lập hồ sơ giao nhận khoán rừng và đất rừng
sản xuất cho hộ nhận khoán do ông Nguyễn Văn H1 đại diện gia đình ký hồ sơ
giao nhận khoán có tổng diện tích 73.428,4m
2
thuộc các thửa số 135 và số 138,
khoảnh 16, tiểu khu 154. Đối với phần đất của ông Nguyễn Tấn H2 sử dụng chưa
xác lập lại hồ sơ giao nhận khoán.
- Bà Huỳnh Mỹ Sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày:
Nguồn gốc phần đất của ông H1 sử dụng được chuyển giao từ ông Phạm Văn
Thạch có diện tích theo sổ hợp đồng giao khoán trước đây là 4 ha, phần còn lại dôi
dư ra ông H1 không xác định được từ đâu có trong khi đó căn cứ vào tài liệu do
ông H2 cung cấp có xác nhận của người hiểu biết sự việc phù hợp với lời khai của
ông H2, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu của ông H1.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 70/2018/DS-ST ngày 19 tháng 11 năm 2018
của Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hiển quyết định:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn H1 về việc yêu cầu công
nhận quyền sử dụng đất nhận khoán.
Công nhận phần diện tích đất 2.216,7m
2
nằm trong các thửa số 135 và
số138, khoảnh 16, tiểu khu 154 thuộc ấp N, xã T, huyện N, tỉnh C thuộc quyền sử
dụng nhận khoán của hộ gia đình ông Nguyễn Văn H1 hiện do gia đình ông H1
quản lý theo vị trí đo đạc thực tế tính từ điểm M24 đến M25; từ M20 đến M19 và
M16; từ M16 đến M14; từ M14 đến M13; từ M13 đến M11, M10 và M9; từ M9
đến M12 và M13; từ M13 đến M15; từ M15 đến M17; từ M17 đến M18 và M21;
từ M22 đến M23.
(Có sơ đồ kèm theo).
Buộc ông Nguyễn Tấn H2 có trách nhiệm giao trả cho ông Nguyễn Văn H1
phần chi phí đo đạc 18.955.000 đồng.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ chậm trả, án phí và quyền kháng
cáo của các đương sự.
4
Ngày 03/12/2018, ông Nguyễn Tấn H2 có đơn kháng cáo yêu cầu cấp phúc
thẩm sửa án sơ thẩm theo hướng công nhận phần đất 2.216,7m
2
đang tranh chấp
thuộc quyền sử dụng nhận khoán của ông.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông H2 giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên tòa phát biểu:
Về tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án, của Hội
đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng tại phiên tòa
đúng quy định pháp luật. Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản
3 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự hủy bản án sơ thẩm giao hồ sơ về cấp sơ
thẩm giải quyết lại theo thủ tục chung.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Xét kháng cáo của ông Nguyễn Tấn H2 cho rằng án sơ thẩm công nhận
phần diện tích đất 2.216,7m
2
nằm trong các thửa số 135, số138, khoảnh 16 tiểu khu
154 ấp N, xã T, huyện N, tỉnh C thuộc quyền sử dụng nhận khoán của hộ ông
Nguyễn Văn H1 là không có căn cứ, không đúng quy định của pháp luật. Yêu cầu
cấp phúc thẩm công nhận phần đất đó thuộc quyền sử dụng nhận khoán của ông
H2, Hội đồng xét xử thấy rằng:
Phần đất tranh chấp có tổng diện tích theo đo đạc thực tế là 2.216,7m
2
tọa
lạc tại ấp N, xã T, huyện N, tỉnh C được xác định là đất được nhận giao khoán.
Ông H1 cho rằng phần đất tranh chấp nằm trong phần đất của gia đình ông nhận
giao khoán được xác lập hồ sơ giao nhận khoán rừng và đất rừng sản xuất năm
2015 do ông đứng tên tại các thửa số 135, số138, khoảnh 16, tiểu khu 154. Ông H2
không đồng ý cho rằng phần đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng nhận khoán của
gia đình ông H2.
Để chứng minh cho trình bày của mình ông H2 cung cấp cho Tòa án Thông
báo số: 23/TB/2005 ngày 25/7/2005 của Ban quản lý bảo vệ và phát triển rừng
13/12 về việc giao chỉ tiêu trồng rừng năm 2005 có nội dung thể hiện diện tích đất
ông H2 được giao khoán là 13ha. Nhưng theo sổ hợp đồng giao khoán đất lâm
nghiệp do đơn vị Ban quản lý bảo vệ và phát triển rừng 13/12 xác lập với hộ ông
H2 vào năm 1994 thể hiện phần đất ông H2 được giao nhận khoán có diện tích
9,5ha. Quá trình sử dụng đất ông H2 cũng thừa nhận ông Hưng không có lần nào
yêu cầu cơ quan chủ quản cấp lại sổ hợp đồng diện tích 13ha. Hơn nữa, thời gian
giao khoán theo sổ hợp đồng được cấp cho ông H2 vào năm 1994 chỉ có hiệu lực
đến ngày 01/12/2014 và sau khi thời gian giao khoán theo hợp đồng đã hết đến nay
chưa có hồ sơ, tài liệu nào của cơ quan chức năng xác lập cho hộ ông H2 nhận
khoán với diện tích 13ha. Như vậy mặc nhiên ông H2 đã thừa nhận đối với phần
diện tích đất đã được nhận khoán theo hợp đồng năm 1994 như hiện trạng mà ông
H2 đang quản lý, sử dụng. Cho dù sổ hợp đồng giao khoán năm 1994 đã hết hiệu
lực chưa được xác lập lại hồ sơ giao nhận khoán nhưng đây cũng là cơ sở để xác
định quyền và nghĩa vụ của các bên giao nhận khoán trước đó.
5
Đối với phần diện tích đất của ông H1 nhận khoán có sự chênh lệch so với
sổ hợp đồng giao khoán trước đây nhưng thực tế vị trí đất do ông H1 quản lý, sử
dụng vẫn không có sự thay đổi sau khi được ông Thạch chuyển giao. Theo nội
dung xác nhận của ông Nguyễn Minh Chiến cũng đã thể hiện việc giữa ông Thạch
và ông H2 đã được giải quyết dứt điểm trước đó. Căn cứ diện tích đo đạc thực tế
thấy rằng phần đất ông H2 đang quản lý sử dụng là 115.104,7m
2
là
lớn hơn phần
diện tích đất thể hiện tại sổ hợp đồng giao khoán do ông H2 đứng tên nhận khoán
vào năm 1994 và nếu tính theo vị trí đất do ông H1 xác định thì quản lý, sử dụng
vẫn thiếu so với phần diện tích đất gia đình ông H1 đã được nhận khoán.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện cho công ty TNHH Một thành viên Lâm
nghiệp Ngọc Hiển xác định phần đất tranh chấp là của ông H1 thuộc một phần các
thửa số 135, số138. Đối với thửa đất 161 của ông H2 được cấp theo sổ năm 1994
thì nay theo bản đồ mới là thửa 141, 155. Sau khi sáp nhập công ty, công ty có yêu
cầu các hộ dân nhận đất giao khoán tiến hành đổi sổ mới nhưng phía ông H2
không thực hiện đổi sổ. Quá trình cấp sổ cho ông H1 về phía công ty đã thực hiện
đúng quy định có thông báo rộng rãi, công khai nhưng ông H2 không khiếu nại gì.
Căn cứ vào những cơ sở pháp lý đã nêu trên cùng với quá trình quản lý sử dụng đất
các bên tranh chấp. Do đó cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H1
công nhận phần diện tích 2.216,7m
2
tọa lạc tại ấp N, xã T, huyện N, tỉnh C thuộc
quyền sử dụng nhận khoán của hộ ông Nguyễn Văn H1 theo vị trí đo đạc thực tế là
có căn cứ.
[2] Từ phân tích trên, Hội đồng xét xử không có cơ sở chấp nhận kháng cáo
của ông Nguyễn Tấn H2, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[3] Do không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông H2 vì vậy án phí dân sự
phúc thẩm ông H2 phải chịu. Tuy nhiên do ông H2 là người cao tuổi nên được
miễn theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án;
Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Tấn H2
Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 70/2018/DS-ST ngày 19 tháng 11 năm
2018 của Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hiển.
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn H1 về việc yêu cầu công
nhận quyền sử dụng đất nhận khoán.
Công nhận phần diện tích đất 2.216,7m
2
nằm trong các thửa số 135, số138,
khoảnh 16, tiểu khu 154 thuộc ấp N, xã T, huyện N, tỉnh C thuộc quyền sử dụng
nhận khoán của hộ gia đình ông Nguyễn Văn H1 hiện do gia đình ông H1 quản lý
6
theo vị trí đo đạc thực tế tính từ điểm M24 đến M25; từ M20 đến M19 và M16; từ
M16 đến M14; từ M14 đến M13; từ M13 đến M11, M10 và M9; từ M9 đến M12
và M13; từ M13 đến M15; từ M15 đến M17; từ M17 đến M18 và M21; từ M22
đến M23.
(Có sơ đồ kèm theo)
Buộc ông Nguyễn Tấn H2 có trách nhiệm giao trả cho ông Nguyễn Văn H1
phần chi phí đo đạc 18.955.000 đồng.
Kể từ khi ông Nguyễn Văn H1 có đơn yêu cầu thi hành án nếu ông Nguyễn
Tấn H2 chậm thực hiện nghĩa vụ trả số tiền trên thì hàng tháng ông H2 còn phải
chịu thêm khoản tiền lãi suất chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ
luật Dân sự.
Án phí sơ thẩm: Án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch ông Nguyễn Tấn
H2 được miễn nên ông H2 không phải nộp. Ông Nguyễn Văn H1 không phải chịu
ngày 05/4/2018 ông H1 đã dự nộp tạm ứng án phí số tiền 1.225.500 đồng theo biên
lai số 0014158 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ngọc Hiển được nhận lại.
Án phí phúc thẩm ông Nguyễn Tấn H2 được miễn nộp tiền tạm ứng án phí
và án phí dân sự phúc thẩm nên không phải chịu. Ngày 03/12/2018 ông H2 đã dự
nộp 300.000đ theo biên lai thu số 0005445 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện
Ngọc Hiển được nhận lại.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9
Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Các thành viên Hội đồng xét xử Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
Hồ Minh Tấn - Huỳnh Văn Út Phạm Việt Trung
7
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau;
- Tòa án nhân dân H.Ngọc Hiển;
- Chi cục THADS H.Ngọc Hiển;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu án văn;
- Lưu VT(TM:TANDTCM).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phạm Việt Trung
ơ
Tải về
Quyết định số 76/2019/QĐPT-DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 16/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 31/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 28/02/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 02/02/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 24/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 10/11/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 17/10/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 19/09/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 13/09/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 29/08/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 26/06/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 14/06/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 07/06/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 30/03/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 23/03/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 23/02/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 24/11/2022
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 21/10/2022
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 26/08/2022
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 12/08/2022
Cấp xét xử: Phúc thẩm