Quyết định số 270/2024/DS-GĐT ngày 24/10/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Quyết định số 270/2024/DS-GĐT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Quyết định số 270/2024/DS-GĐT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Quyết định 270/2024/DS-GĐT
Tên Quyết định: | Quyết định số 270/2024/DS-GĐT ngày 24/10/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
Cấp xét xử: | Giám đốc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 270/2024/DS-GĐT |
Loại văn bản: | Quyết định |
Ngày ban hành: | 24/10/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | ...các bên không thể ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất như đã thỏa thuận trong Hợp đồng đặt cọc là do lỗi của cả hai bên là ông T và ông V. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm quyết định phạt cọc trong trường hợp này là không có cơ sở, làm ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của bị đơn, cần phải hủy bản án phúc thẩm nêu trên, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ giải quyết phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự. |
Tóm tắt Quyết định
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Quyết định giám đốc thẩm
Số: 270/2024/DS-GĐT
Ngày: 24/10/2024
V/v: tranh chấp hợp đồng đặt cọc
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
ỦY BAN THẨM PHÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Thành phần Ủy ban Thẩm phán - Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh gồm: 10 thành viên tham gia xét xử, do ông Bùi Đức Xuân -
Phó Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, làm chủ tọa
phiên tòa.
Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Ngọc Loan Chi, Thẩm tra viên chính, Tòa
án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Lê Minh Sơn - Kiểm sát viên.
Ngày 24 tháng 10 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự về “Tranh
chấp hợp đồng đặt cọc”, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Dương Chí T, sinh năm 1985.
Địa chỉ: Số * ấp TT, xã LT, huyện PD, thành phố Cần Thơ.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Hải V, sinh năm 1988.
Địa chỉ: Số * đường số *, khu dân cư PH, Khu vực *, phường AB, quận
KN, thành phố Cần Thơ.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Dương Lương T1,
sinh năm 1978; địa chỉ: * đường *, phường HL, quận KN, thành phố Cần Thơ.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Đơn khởi kiện ngày 02/5/2020 của nguyên đơn là ông Dương Chí T
cũng như trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn và người đại diện theo
ủy quyền của nguyên đơn là bà Nguyễn Sỹ K trình bày:
2
Ngày 17/3/2020, ông Nguyễn Hải V và ông Dương Chí T ký kết hợp đồng
đặt cọc chuyển nhượng nhà và quyền sử dụng đất. Ông V chuyển nhượng (bán)
cho ông T căn nhà và đất diện tích 147,7m
2
(ODT), diện tích xây dựng 90,62m
2
,
diện tích sử dụng 141,17m
2
theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền
sử dụng đất ở (sau đây viết tắt là GCNQSDĐ) số 5401141304 (cấp cho ông Hồ
Phước T2 ngày 13/5/2002, được chỉnh lý biến động sang tên ông Nguyễn Hải V
vào ngày 05/9/2018) và chuyển nhượng quyền sử dụng đất diện tích 36,3m
2
(ODT) theo GGCNQSDĐ số 04505 cấp cho bà Nguyễn Thị N ngày 10/1/2003
(được chỉnh lý biến động sang tên ông Nguyễn Hải V vào ngày 05/9/2018). Giá
chuyển nhượng 7.700.000.000 đồng. Phương thức thanh toán: ông T đưa tiền
mặt 4.500.000.000 đồng và đưa thêm 02 lô đất tại thửa đất số 75 + 88, tờ bản đồ
số 09, tổng diện tích 76,5m
2
(ODT) theo GCNQSDĐ số Q118269 cấp ngày
23/5/2002, trị giá tương đương 3.200.000.000đồng. Ông T đã giao tiền cọc cho
ông V số tiền 4.300.000.000 đồng. Cụ thể: ngày 17/3/2020 giao 300.000.000
đồng; ngày 24/3/2020 giao 700.000.000 đồng; ngày 06/4/2020 giao
3.300.000.000 đồng; ông V giao GCNQSDĐ bản chính cho ông T giữ. Hai bên
giao kết ngày 20/4/2020, bên bán (ông V) ra công chứng ký hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở và bên mua chuyển nhượng
lại 02 lô đất cho bên bán và trả 200.000.000 đồng còn lại cho bên bán sau khi
hoàn tất thủ tục chuyển nhượng tại văn phòng công chứng. Nhưng đến ngày
20/4/2020, bên bán lại đổi ý không ra văn phòng công chứng ký hợp đồng
chuyển nhượng nhà đất như đã giao kết nên bên bán đã vi phạm hợp đồng giao
kết đặt cọc mua bán nhà đất mà hai bên đã ký kết. Ông T yêu cầu hủy hợp đồng
đặt cọc mua bán nhà đất ký kết ngày 17/3/2020; buộc ông V có trách nhiệm bồi
thường gấp đôi số tiền cọc đã nhận, tổng số tiền yêu cầu là 8.600.000.000 đồng.
Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông là ông Nguyễn Hải V và người đại
diện theo ủy quyền là ông Ngô Bảo H trình bày:
Ông V thừa nhận ký kết hợp đồng đặt cọc với ông T ngày 17/3/2020; thừa
nhận từ ngày 17/3/2020 đến ngày 06/4/2020 đã nhận của ông T số tiền
4.300.000.000 đồng tiền cọc, ông V thống nhất hủy hợp đồng đặt cọc ngày
17/3/2020, đồng ý trả cho nguyên đơn số tiền 4.300.000.000 đồng, không đồng
ý bồi thường số tiền 4.300.000.000 đồng. Yêu cầu xác định lỗi dẫn đến hợp
đồng đặt cọc không thể thực hiện được, lý do đến ngày 20/4/2020 hẹn ra công
chứng nhưng ông T là bên nguyên đơn không thanh toán đủ số tiền 200.000.000
đồng như thỏa thuận (cho đủ 4.500.000.000 đồng) để ông bồi thường hợp đồng
thuê giữa ông và bà Võ Kim L ngày 11/10/2018; đối với 02 phần đất thửa 75 và
thửa 88 thì do ông T chỉ đứng tên thửa 88, còn thửa 75 do ông T chỉ nói thửa đất
này của ông T đang thực hiện tách thửa giấy tờ đang đứng tên gây nhầm lẫn cho
bị đơn. Thực tế ông Dương Lương T1 đứng tên chưa tặng cho qua cho ông T
nên không thể thực hiện thủ tục sang tên qua ông hai thửa đất 75 + 88 như đã
3
thỏa thuận trong hợp đồng đặt cọc. Ông yêu cầu nguyên đơn phải thanh toán lại
số tiền 200.000.000 đồng mà ông đã bồi thường cho bà L khi chấm dứt hợp
đồng thuê trước thời hạn (do khi ký hợp đồng thuê nhà ông đã nhận cọc của bà
L 100.000.000 đồng nên hủy hợp đồng phải bồi thường) và số tiền thiệt hại do
mất thu nhập từ việc cho thuê nhà từ ngày 20/4/2020 đến ngày 20/8/2022 là
700.000.000 đồng. Đối với giấy cam kết của ông T1 với ông T ông không nhận
biết được.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Dương Lương T1 trình bày:
Ông thống nhất theo trình bày của nguyên đơn, ông T là em ruột của ông.
Do giấy đất của ông Nguyễn Hải V thời điểm đang thế chấp tại Ngân hàng
Agribank nên ông là người trả tiền cho Ngân hàng để giải chấp tài sản này ra.
Tổng số tiền ông trả cho Ngân hàng là 3.298.999.781 đồng, lúc đó ông V giao
giấy đất cho ông T giữ. Ông và vợ là bà Nguyễn Thị Thúy A cũng đã làm cam
kết sẽ ký chuyển nhượng giao thửa đất số 75 sang tên cho ông V. Tại thời điểm
ông T và ông V hẹn ra cơ quan công chứng, do ông V không đến nên ông cũng
không đến.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 35/2023/DS-ST ngày 16/3/2023, Tòa án
nhân dân quận KN, thành phố Cần Thơ quyết định:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Dương Chí T. Đình chỉ
yêu cầu phản tố của bị đơn về việc buộc nguyên đơn phải bồi thường số tiền
900.000.000 đồng (gồm 200.000.000 đồng tiền phạt chấm dứt hợp đồng thuê
trước thời hạn và 700.000.000 đồng tiền thuê nhà).
Buộc bị đơn ông Nguyễn Hải V phải giao trả cho nguyên đơn ông Dương
Chí T số tiền 4.300.000.000 đồng và số tiền bồi thường 4.300.000.000 đồng.
Tổng số tiền là 8.600.000.000 đồng.
Hủy bỏ hợp đồng đặt cọc ngày 17/3/2020 giữa ông Dương Chí T và ông
Nguyễn Hải V.
Tiếp tục duy trì biện pháp khẩn cấp tạm thời tại Quyết định số
05/2020/QĐ-BPKCTT ngày 26/5/2020 của Tòa án nhân dân quận KN về áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời “Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với
tài sản đang tranh chấp”. Việc hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời được thực
hiện theo quy định tại Chương VIII của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Ghi nhận việc nguyên đơn tự nguyện trả lại bản chính các GCNQSDĐ
đối với thửa đất số 112, 113 và 182 theo GGCNQSDĐ số 04505.QSDĐ do Ủy
ban nhân dân thành phố Cần Thơ (cũ) cấp ngày 10/01/2003 và GGCNQSDĐ số
5401141304 do Ủy ban nhân dân tỉnh Cần Thơ (cũ) cấp ngày 13/5/2002 cho bị
đơn sau khi bị đơn đã thanh toán đủ tiền cho nguyên đơn.
4
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, thi hành án và
quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 27/3/2023, bị đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Ngày 13/4/2023, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ ban hành
Quyết định kháng nghị số 07/QĐ-VKS-DS đề nghị sửa bản án sơ thẩm đối với
phần phạt cọc theo hướng không buộc ông V phải bồi thường gấp đôi số tiền đã
đặt cọc.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 377/2023/DS-PT ngày 25/8/2023, Tòa án
nhân dân thành phố Cần Thơ quyết định:
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn. Không chấp nhận Kháng nghị số
07/QĐ-VKS-DS ngày 13/4/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố
Cần Thơ về đề nghị sửa án sơ thẩm đối với phần phạt cọc. Chấp nhận phần kháng
nghị về việc cấp sơ thẩm có sai sót trong việc ghi thời gian (giờ) trong biên bản
phiên tòa và biên bản nghị án.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đình chỉ yêu cầu phản tố
của bị đơn về việc buộc nguyên đơn phải bồi thường số tiền 900.000.000 đồng
(gồm 200.000.000 đồng tiền phạt chấm dứt hợp đồng thuê trước thời hạn và
700.000.000 đồng tiền thuê nhà).
Hủy hợp đồng đặt cọc ngày 17/3/2020 giữa ông Dương Chí T và ông
Nguyễn Hải V.
Buộc ông Nguyễn Hải V trả cho ông Dương Chí T 8.600.000.000 đồng
(trong đó có 4.300.000.000 đồng tiền cọc và số 4.300.000.000 đồng tiền phạt
cọc).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho
đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án
còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất
quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Tiếp tục duy trì biện pháp khẩn cấp tạm thời tại Quyết định số
05/2020/QĐ-BPKCTT ngày 26/5/2020 của Tòa án nhân dân quận KN về áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời "Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với
tài sản tranh chấp”. Việc hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời được thực hiện
theo quy định tại chương VIII của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Ghi nhận việc ông Dương Chí T tự nguyện trả lại bản chính các
GCNQSDĐ đối với thửa đất số 112, 113 và 182 theo GCNQSDĐ số
04505.QSDĐ do Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ (cũ) cấp ngày
10/01/2003 và GCNQSDĐ số 5401141304 do Ủy ban nhân dân tỉnh Cần Thơ
5
(cũ) cấp ngày 13/5/2002 cho ông Nguyễn Hải V sau khi ông Nguyễn Hải V đã
thanh toán đủ tiền cho ông Dương Chí T.
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí, thi hành án và
hiệu lực pháp luật của bản án.
Ngày 19/10/2023, ông Nguyễn Hải V có đơn đề nghị và ngày 23/10/2023,
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ ban hành Thông báo số
22/TB-VKS-DS đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án
dân sự phúc thẩm nêu trên.
Tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 51/QĐ-VKS-DS ngày
02/2/2024 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh kháng nghị đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 377/2023/DS-PT ngày
25/8/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ. Đề nghị Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử giám đốc thẩm hủy bản án dân sự
phúc thẩm nêu trên, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ
để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng giám đốc thẩm chấp nhận kháng nghị
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Hồ sơ vụ án thể hiện các đương sự trong vụ án được cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền cấp quyền sử dụng đất, cụ thể:
+ Tại GCNQSDĐ số 5401141304 do Ủy ban nhân dân tỉnh Cần Thơ (cũ)
cấp ngày 13/5/2002 cho ông Hồ Phước Thành: đất ở có diện tích 147,7m
2
thuộc
thửa đất số 112, tờ bản đồ số 45; nhà ở có tổng diện tích xây dựng 141,7m
2
. Ông
Hồ Phước Thành chuyển nhượng toàn bộ nhà, đất cho ông Nguyễn Hải V và
ông V đã được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai quận KN, thành phố Cần
Thơ cập nhật, chỉnh lý ngày 05/9/2018. Ngày 11/10/2018, tại Văn phòng Công
chứng Cửu Long, ông Nguyễn Hải V ký “Hợp đồng thuê nhà” cho bà Võ Kim L
thuê toàn bộ nhà, đất trên trong thời hạn 03 năm kể từ ngày 06/9/2018, giá thuê
40.000.000 đồng/tháng.
+ Tại GCNQSDĐ số 04505/QSDĐ do Ủy ban nhân dân thành phố Cần
Thơ cấp ngày 10/01/2003 cho bà Nguyễn Thị N tổng diện tích 36,3m
2
đất thổ cư
thuộc thửa 113, 182 tờ bản đồ số 45; đất tại địa chỉ đường 3/2, phường HL,
thành phố Cần Thơ. Bà N chuyển nhượng toàn bộ quyền sử dụng đất cho ông
Nguyễn Hải V và ông V đã được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai quận
KN, thành phố Cần Thơ cập nhật, chỉnh lý ngày 05/9/2018.
6
+ Tại GCNQSDĐ số CU 291015 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành
phố Cần Thơ cấp ngày 01/4/2020 cho ông Dương Chí T diện tích 35,9m
2
đất tại
thửa số 88, tờ bản đồ số 9. Đất tại địa chỉ khu vực 2, đường Nguyễn Văn Cừ,
phường An Khánh, quận KN, thành phố Cần Thơ.
+ Tại GCNQSDĐ số CU 291399 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành
phố Cần Thơ cấp ngày 16/3/2020 cho ông Dương Lương T1 diện tích 45,0m
2
đất tại thửa số 75, tờ bản đồ số 9. Đất tại địa chỉ khu vực 2, đường Nguyễn Văn
Cừ, phường An Khánh, quận KN, thành phố Cần Thơ.
[2] Theo “Hợp đồng đặt cọc mua bán nhà, đất” ngày 17/3/2020 giữa bên
bán (Bên A) là ông Nguyễn Hải V với bên mua (Bên B) là ông Dương Chí T thể
hiện nội dung: Bên A bán cho Bên B toàn bộ 01 căn nhà và đất thuộc
GCNQSDĐ số 5401141304 do Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ cấp ngày
13/5/2022, chỉnh lý ngày 05/9/2018 (nhà và đất trên thửa 112); phần đất thuộc
GCNQSDĐ số 04505/QSDĐ diện tích 36,3m
2
tại đường 3/2, phường HL, thành
phố Cần Thơ. Giá mua toàn bộ các tài sản theo hợp đồng là 7.700.000.000 đồng.
Phương thức thanh toán gồm 05 lần cụ thể:
+ Lần 1: ngày 17/3/2020 bên mua đặt cọc trước 300.000.000 đồng;
+ Lần 2: sau 07 ngày, đến ngày 24/3/2020 bên mua thanh toán tiếp
700.000.000 đồng;
+ Lần 3: ngày 04/4/2020, bên mua thanh toán tiếp 500.000.000 đồng;
+ Lần 4: ngày 20/4/2020 bên mua thanh toán tiếp 3.000.000.000 đồng để
bên bán có điều kiện ra Ngân hàng để lấy lại GCNQSDĐ xóa thế chấp và hai
bên cùng ra Văn phòng công chứng để ký hợp đồng chuyển nhượng cho bên mua.
“Hợp đồng đặt cọc mua bán nhà, đất” trên còn ghi rõ: “Tổng cộng số tiền
bên mua đưa cho bên bán tiền mặt chỉ được 4.500.000.000 đồng (bốn tỷ năm
trăm triệu đồng). Do vậy, bên mua đưa thêm hai lô đất trị giá 3.000.000.000
đồng” “Đặc điểm hai lô đất: Thửa đất số 88+75, tờ bản đồ số 9, tổng diện tích
76,5m
2
…thuộc Giấy chứng nhận QSD đất số Q118269 do UBND TP Cần Thơ
cấp ngày 23/5/2002 (Hiện bên mua đang làm thủ tục tách ra 2 thửa 2 giấy
chứng nhận QSD đất). Cùng ngày 20/4/2020 thì bên mua sẽ cùng bên bán ra ký
hợp đồng chuyển nhượng tại Văn phòng Công chứng giao cho bên bán”.
Ngoài ra, hợp đồng đặt cọc còn ghi trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi bên và
thỏa thuận nếu bên bán không thực hiện đúng hợp đồng như đã thỏa thuận và
cam kết (đổi ý không bán) thì phải bồi thường gấp đôi số tiền đã nhận. Nếu bên
mua không thực hiện đúng hợp đồng thì chịu mất số tiền đã giao cho bên bán...
[3] Theo “Giấy cam kết” cùng ngày 17/3/2020 chỉ có chữ ký của ông T1
và bà A, có nội dung ông Dương Lương T1 cùng bà Nguyễn Thị Thúy A
“…Chúng tôi xin cam kết đồng ý chuyển nhượng thửa đất số 75, tờ bản đồ số
7
09…cho ông Nguyễn Hải V …theo yêu cầu ông Dương Chí T, để thực hiện hợp
đồng đặt cọc mua bán nhà, đất ký ký ngày 17/3/2020 giữa ông V và ông T.
Chúng tôi xin cam kết làm đúng theo cam kết này…Giấy cam kết được lập thành
02 bản có giá trị ngang nhau, bên ông T 01 bản, bên cam kết 01 bản”. Vụ án đã
được Tòa án nhân dân quận KN xét xử sơ thẩm lần thứ nhất ngày 31/3/2021, tuy
nhiên tại cấp sơ thẩm không thể hiện phía ông T có cung cấp cho Tòa án “Giấy
cam kết” ngày 17/3/2020 trên, ông T chỉ cung cấp “Giấy cam kết” này tại phiên
tòa phúc thẩm ngày 19/5/2022 và ông T1 cũng có đơn yêu cầu tham gia tố tụng.
Do có tình tiết mới nên Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ đã xét xử phúc
thẩm hủy toàn bộ bản án sơ thẩm về giải quyết lại theo thủ tục chung.
Đối với “Giấy cam kết” ngày 17/3/2020 trên, ông V xác nhận không nhận
được. Cam kết này không có sự chứng kiến hoặc xác nhận của ông V, trong khi
hợp đồng đặt cọc ngày 17/3/2020 giữa ông V và ông T không có sự tham gia
của ông T1. Các đương sự thỏa thuận ngày 20/4/2020 đến văn phòng công
chứng thực hiện việc chuyển nhượng nhưng hồ sơ vụ án thể hiện ngày
03/4/2020, ông T1 mới tặng cho ông T 4,40m
2
đất thuộc thửa 75, đến ngày
08/5/2021 ông T1 tiếp tục tặng cho ông T 22,6m
2
đất thuộc thửa 75, diện tích
còn lại của thửa 75 ông T1 nhập vào thửa 74 (Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý ngày
20/5/2020 đối với vụ án tranh chấp hợp đồng đặt cọc giữa ông T và ông V).
[4] Đối với thửa đất số 75, theo thỏa thuận tại hợp đồng đặt cọc ông T
chuyển nhượng lại cho ông V để thanh toán vào giá trị chuyển nhượng quyền sử
dụng thửa đất số 112. Tuy nhiên, thời điểm ngày 17/3/2020 ông T không đứng
tên chủ sử dụng đất đối với thửa đất số 75. Thực tế thửa đất số 75 là của vợ
chồng ông Dương Lương T1, bà Nguyễn Thị Thúy A. Như vậy, đến ngày
20/4/2020 thì ông T vẫn chưa được toàn quyền quyết định chuyển nhượng đối
với thửa đất số 75 này. Tại thời điểm giao kết hợp đồng đặt cọc, do ông T không
thông báo cho ông V biết trước tình trạng pháp lý của thửa đất số 75 làm cho
ông V nhầm tưởng rằng ông T có đầy đủ điều kiện để chuyển nhượng quyền sử
dụng đất cho ông V. Ông V cũng có lỗi không tìm hiểu kỹ về thửa đất 75 cũng
như thỏa thuận, bàn bạc ký kết cụ thể với ông T và ông T1 là chủ sử dụng thửa
75 về cách thức giao dịch chuyển nhượng. Trên thực tế, tại thời điểm bên
nguyên đơn và bên bị đơn hẹn đến văn phòng công chứng thì thửa đất số 75 vợ
chồng ông T1, bà A vẫn còn đứng tên chủ quyền. Như vậy, ông T có lỗi vi phạm
nghĩa vụ thỏa thuận với ông V khi giao kết hợp đồng.
[5] Hợp đồng đặt cọc được ký kết ngày 20/4/2020 giữa ông T và ông V
làm cơ sở để hai bên ký kết hợp đồng chuyển nhượng các quyền sử dụng đất
cho nhau, ngoài ra ông T và ông V không thỏa thuận ký kết hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất với ai khác (không ký với ông Dương Lương T1, bà
Nguyễn Thị Thúy A). Mặt khác, về thỏa thuận phương thức thanh toán đối với
việc cấn trừ thửa đất số 75 không rõ ràng, dẫn đến cách hiểu khác nhau giữa bên
8
bán và bên mua do đó, không có căn cứ cho rằng ông V có thực hiện việc thỏa
thuận với vợ chồng ông T1. Trường hợp này, ông T không có quyền đơn
phương ép buộc ông V phải nhận chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 75
trực tiếp từ ông T1. Nếu ông T, ông T1, bà A muốn ông V nhận chuyển nhượng,
thì phải bàn bạc, thỏa thuận và ký kết với ông theo cách thức giải quyết ghi tại
mục V (Điều kiện cam kết chung) của Hợp đồng đặt cọc.
[6] Như vậy, các bên không thể ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất như đã thỏa thuận trong Hợp đồng đặt cọc là do lỗi của cả hai bên là
ông T và ông V. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm quyết định phạt
cọc trong trường hợp này là không có cơ sở, làm ảnh hưởng đến lợi ích hợp
pháp của bị đơn, cần phải hủy bản án phúc thẩm nêu trên, giao hồ sơ vụ án cho
Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ giải quyết phúc thẩm lại theo đúng quy
định của pháp luật nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 325; Điều 342; Điều 345 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
1. Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 51/QĐ-VKS-DS
ngày 02/02/2024 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố
Hồ Chí Minh.
2. Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 377/2023/DS-PT ngày
25/8/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ, về vụ án “Tranh chấp hợp
đồng đặt cọc” giữa nguyên đơn là ông Dương Chí T với bị đơn là ông Nguyễn
Hải V. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử phúc
thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
3. Quyết định giám đốc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định./.
Nơi nhận:
- Chánh án TAND tối cao (để báo cáo);
- Vụ pháp chế và QLKH TAND tối cao;
- VKSNDCC tại TP. HCM;
- TAND thành phố Cần Thơ;
- TAND quận KN, thành phố Cần Thơ;
- Chi cục THADS quận KN;
- Các đương sự (theo địa chỉ);
- Lưu: VP, Phòng GĐKTII, HS, THS(35).
TM. ỦY BAN THẨM PHÁN
PHÓ CHÁNH ÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Bùi Đức Xuân
Tải về
Quyết định số 270/2024/DS-GĐT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quyết định số 270/2024/DS-GĐT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
2
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
3
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
4
Ban hành: 05/12/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
5
Ban hành: 02/12/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
6
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
7
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
8
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
9
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
10
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
11
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
12
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
13
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
14
Ban hành: 13/11/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
15
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
16
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
17
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
18
Ban hành: 08/11/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
19
Ban hành: 07/11/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
20
Ban hành: 07/11/2024
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm