Quyết định số 26/2024/QĐST-DS ngày 28/08/2024 của TAND huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Quyết định số 26/2024/QĐST-DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Quyết định số 26/2024/QĐST-DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Quyết định 26/2024/QĐST-DS
Tên Quyết định: | Quyết định số 26/2024/QĐST-DS ngày 28/08/2024 của TAND huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Tiên Du (TAND tỉnh Bắc Ninh) |
Số hiệu: | 26/2024/QĐST-DS |
Loại văn bản: | Quyết định |
Ngày ban hành: | 28/08/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp HĐ vay tài sản |
Tóm tắt Quyết định
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN TIÊN DU
TỈNH BẮC NINH
Bản án số: 26/2024/DSST
Ngày 28/8/2024
Vụ: V/v tranh chấp hợp đồng vay tài
sản giữa ông Long và bà Lan với
ông Hoa và bà Huế
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU
Với hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - chủ toạ phiên toà: Ông Trần Văn Quang.
Hội thẩm nhân dân: Ông Trần Quang Lưu và bà Lê Thị Xuân.
Thư ký phiên toà: Bà Đỗ Thị Lụa- Thư ký tòa án nhân dân huyện Tiên Du.
Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du tham gia phiên tòa: Bà Nguyễn
Thị Tuyết - Kiểm sát viên.
Ngày 28/8/2024, tại trụ sở tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh mở
phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản thụ lý số:
63/2024/TLST- DS ngày 06 tháng 3 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử
số: 31/2024/QĐXXST- DS, ngày 03/7/2023; Quyết định hoãn phiên tòa số:
36/2024/QĐST- DS ngày 30/7/2024, giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Ông Khổng Doãn L, sinh năm 1970. Có mặt.
Bà Nguyễn Thị Phương L1, sinh năm 1971. Có mặt.
Địa chỉ: Số G H, thị trấn L, huyện T, tỉnh Bắc Ninh.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Khổng Khánh L2, sinh năm 1995. Có mặt.
Địa chỉ: Số G H, thị trấn L, huyện T, tỉnh Bắc Ninh.
* Bị đơn: Ông Nguyễn Sỹ H, sinh năm 1973. Có mặt.
Bà Nguyễn Thị H1, sinh năm 1975. Vắng mặt.
Địa chỉ: Xóm T, thôn L, thị trấn L, huyện T, tỉnh Bắc Ninh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện, tại các lời khai có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa
người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn chị Khổng Khánh L2 trình bày:
Giữa vợ chồng ông Khổng Doãn L và bà Nguyễn Thị Phương L1 với vợ chồng
ông Nguyễn Sỹ H và bà Nguyễn Thị H1 là chỗ quen biết xã hội với nhau. Ngày
05/10/2022, ông L và bà L1 đã cùng vợ chồng ông H và bà H1 đã ký kết 02 Hợp
đồng cho vay tiền và thế chấp bằng quyền sử dụng đất cụ thể như sau:
2
1. Hợp đồng cho vay tiền và thế chấp bằng quyền sử dụng đất ngày 05/10/2022
được công chứng số 3771; Quyển số 05/2022 TP/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng C.
Theo đó, vợ chồng ông L bà L1 đã cho vợ chồng ông H và bà H1 vay số tiền gốc là:
4.000.000.000 đồng (Bốn tỷ đồng); Thời hạn vay là 01 năm kể từ ngày 05/10/2022
đến ngày 05/10/2023 với lãi suất do hai bên thoả thuận không quá 20%/năm. Các
bên thống nhất thanh toán lãi suất hàng tháng vào ngày cuối cùng của tháng đó. Để
đảm bảo thực hiện Hợp đồng cho vay tiền trên, vợ chồng ông H bà H1 đã thế chấp
tài sản hợp pháp là quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 4, tờ bản đồ số 44, diện tích
81m
2
tại Khu đô thị mới, thị trấn L, huyện T, tỉnh Bắc Ninh theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CC
217815, vào sổ cấp GCN số CS 00644 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp
ngày 09/03/2016 mang tên ông Nguyễn Sỹ H và bà Nguyễn Thị H1.
2. Hợp đồng cho vay tiền và thế chấp bằng quyền sử dụng đất ngày 05/10/2022
được công chứng số 3772; Quyển số 05/2022 TP/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng C.
Theo đó, vợ chồng ông L bà L1 đã cho vợ chồng ông H và bà H1 vay số tiền gốc là:
4.000.000.000 đồng (Bốn tỷ đồng); thời hạn vay là 01 năm kể từ ngày 05/10/2022
đến ngày 05/10/2023 với lãi suất do hai bên thoả thuận không quá 20%/năm. Các
bên thống nhất thanh toán lãi suất hàng tháng vào ngày cuối cùng của tháng đó. Để
đảm bảo thực hiện Hợp đồng cho vay tiền trên, vợ chồng ông H bà H1 đã thế chấp
tài sản hợp pháp là quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 2, tờ bản đồ số 44, diện tích
81m
2
tại Khu đô thị mới, thị trấn L, huyện T, tỉnh Bắc Ninh theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CC
217802, vào sổ cấp GCN số CS 00631 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp
ngày 09/03/2016 mang tên ông Nguyễn Sỹ H và bà Nguyễn Thị H1.
Quá trình vay nợ ông H và bà H1 đã trả được cho ông L và bà L1 03 tháng tiền
lãi (tháng 10,11,12/2022) với số tiền 480.000.000 đồng/3 tháng (160.000.000 đồng/
tháng). Kể từ đó cho tới nay, ông H và bà H1 không tiếp tục thực hiện trả lãi suất cho
ông L và bà L1 theo thoả thuận, cũng không hoàn trả toàn bộ số tiền gốc đã vay dù
đã quá thời hạn quy định tại các Hợp đồng đã ký.
Ông L và bà L1 đã nhiều lần gửi thông báo cho ông H và bà H1 yêu cầu thực
hiện đúng nghĩa vụ theo Hợp đồng mà các bên đã ký kết hoàn trả cho vợ chồng ông
L và bà L1 toàn bộ số tiền gốc đã vay là 8.000.000.000 đồng và mọi khoản tiền lãi
chưa thanh toán nhưng ông H và bà H1 vẫn tiếp tục trốn tránh thực hiện nghĩa vụ.
Tại đơn khởi kiện và ông L và bà L1 đề nghị Tòa án giải quyết buộc vợ chồng
ông H và bà H1 phải trả cho vợ chồng ông L và bà L1 toàn bộ số nợ gốc
8.000.000.000 đồng (Tám tỷ đồng chẵn) và số lãi trên nợ gốc theo lãi suất thoả thuận
tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả kể từ ngày 05/11/2022 đến ngày
3
05/10/2023 với lãi xuất 1,66%/tháng, số tiền là 1.460.000.000 đồng; Tiền lãi trên nợ
lãi chưa trả = (nợ lãi chưa trả) x (lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật
Dân sự năm 2015 tại thời điểm trả nợ) x (thời gian chậm trả tiền lãi trên nợ gốc)=
1.460.000.000 đồng x 0,83% x 16 tháng = 193.888.000 đồng ; Lãi trên nợ gốc quá
hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả
kể từ ngày 05/10/2023 đến 05/4/2024) = 8.000.000.000đ x 150% x 1,66%/tháng x 5
tháng = 996.000.000 đồng. Tổng cộng số tiền là 10.649.888.000 đồng (Mười tỷ sáu
trăm bốn mươi chín triệu tám trăm tám mươi tám nghìn đồng).
Tại phiên tòa hôm nay, ông L và bà L1 đề nghị Tòa án giải quyết buộc vợ
chồng ông H và bà H1 phải trả cho vợ chồng ông L và bà L1 toàn bộ số nợ gốc và số
lãi theo thỏa thuận tại hợp đồng và theo quy định của pháp luật tính đến ngày
28/8/2024, cụ thể:
- Nợ gốc: 8.000.000.000 đồng (Tám tỷ đồng chẵn).
- Tiền lãi trên nợ gốc trong hạn theo lãi suất thoả thuận tương ứng với thời hạn
vay mà đến hạn chưa trả kể từ ngày 06/01/2023 đến ngày 05/10/2023 (09 tháng) với
lãi suất 20%/năm, số tiền là 8.000.000.000 đồng x 1,66%/tháng x 09 tháng =
1.195.200.000 đồng.
- Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương
ứng với thời gian chậm trả từ ngày 06/10/2023 đến ngày 06/8/2024 theo điểm b
khoản 5 Điều 466 Bộ luật dân sự 2015 là 8.000.000.000 đồng x 150% x 20%/365
ngày x 10 tháng 22 ngày = 2.117.260.274 đồng.
- Khoản tiền lãi vượt quá trong 03 tháng mà ông H và bà H1 đã trả cho ông L
và bà L1 phía nguyên đơn đồng ý trừ vào số nợ gốc là 81.600.000 đồng. Tổng cộng
số tiền nợ tạm tính đến ngày 28/8/2024 là 11.230.860.274 đồng; trong đó tiền nợ gốc
7.918.400.000 đồng và tiền nợ lãi là 3.312.460.274 đồng.
- Đối với yêu cầu khoản tiền lãi trên nợ lãi chưa trả = (nợ lãi chưa trả) x (lãi suất
quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 tại thời điểm trả nợ) x
(thời gian chậm trả tiền lãi trên nợ gốc kể từ ngày 05/10/2023 đến ngày 05/3/2024)=
1.195.200.000 đồng x 0,83% x 5 tháng = 49.600.000 đồng. Ông L và bà L1 xin rút
toàn bộ yêu cầu đối với khoản tiền lãi trên nợ lãi chưa trả với số tiền 49.600.000
đồng.
Buộc ông H và bà H1 phải tiếp tục trả nợ cho ông L và bà L1 số tiền nợ lãi phát
sinh theo quy định của pháp luật và theo thỏa thuận trong các Hợp đồng cho vay tiền
ngày 05/10/2022 cho đến khi thanh toán xong các khoản nợ.
Trường hợp ông H, bà H1 không trả được nợ cho ông L và bà L1 thì ông L và
bà L1 yêu cầu Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát mại tài sản thế chấp là Quyền
sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 2, tờ bản đồ số 44, diện tích
4
81m
2
tại Khu đô thị mới, thị trấn L, huyện T, tỉnh Bắc Ninh theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CC
217802 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 09/03/2016, vào sổ cấp
GCN số CS 00631 mang tên ông Nguyễn Sỹ H và bà Nguyễn Thị H1 và Quyền sử
dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 4, tờ bản đồ số 44, diện tích 81m
2
tại Khu đô thị mới, thị trấn L, huyện T, tỉnh Bắc Ninh theo Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CC 217815 do
Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 09/03/2016, vào sổ cấp GCN số CS
00644 mang tên ông Nguyễn Sỹ H và bà Nguyễn Thị H1. Trong trường hợp số tài
sản thế chấp phát mại không đủ trả số tiền nợ thì ông H và bà H1 phải có trách nhiệm
tiếp tục trả hết số nợ cho ông L và bà L1.
Ngoài ra, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn không có ý kiến hay
yêu cầu gì khác.
Nguyên đơn ông L và bà L1 nhất trí với lời trình bày của người đại diện theo ủy
quyền của nguyên đơn và không trình bày gì thêm.
* Tại lời khai có trong hồ sơ vụ án bị đơn ông Nguyễn Sỹ H và bà Nguyễn Thị
H1 (tại phiên tòa ông Nguyễn Sỹ H có mặt) trình bày:
Giữa vợ chồng ông Nguyễn Sỹ H và bà Nguyễn Thị H1 với vợ chồng ông
Khổng Doãn L và bà Nguyễn Thị Phương L1 là chỗ quen biết xã hội với nhau. Giữa
vợ chồng ông H và bà H1 với vợ chồng ông L và bà L1 có quan hệ vay tiền từ nhiều
năm với nhiều khoản vay khác nhau. Khi vay ông L và bà L1 có ghi chép sổ nợ và
vợ chồng ông H, bà H1 có trả lãi đầy đủ cho vợ chồng ông L và bà L1, sổ sách ghi
chép công nợ do ông L và bà L1 giữ. Ông H và bà H1 đều thừa nhận ngày
05/10/2022, ông L và bà L1 đã cùng vợ chồng ông H và bà H1 đã ký kết 02 Hợp
đồng cho vay tiền và thế chấp bằng quyền sử dụng đất vay ông L và bà L1 tổng số
tiền gốc 8.000.000.000 đồng (Tám tỷ đồng chẵn) và thế chấp 02 quyền sử dụng đất
đối với thửa đất số 4, tờ bản đồ số 44, diện tích 81m
2
và thửa đất số 2, tờ bản đồ số
44, diện tích 81m
2
cùng toàn bộ tài sản trên 02 thửa đất đều địa chỉ tại Khu đô thị
mới, thị trấn L, huyện T, tỉnh Bắc Ninh mang tên ông H và bà H1. Thời hạn vay là
01 năm kể từ ngày 05/10/2022 đến ngày 05/10/2023. Ông H và bà H1 thừa nhận chữ
ký tại 02 Hợp đồng cho vay tiền và thế chấp bằng quyền sử dụng đất ngày
05/10/2022 mà phía ông L và bà L1 xuất trình làm căn cứ khởi kiện ông H, bà H1
đúng là chữ ký của ông H và bà H1 và không có ý kiến gì. Khi vay các bên không có
thỏa thuận lãi xuất nhưng ông H và bà H1 thực chất phải trả lãi là 20.000.000 đồng/
1 tỷ/1 tháng. Ông H và bà H1 đã trả được cho ông L và bà L1 số tiền lãi 480.000.000
đồng. Kể từ đó cho tới nay, ông H và bà H1 không trả lãi suất cho ông L bà L1 nữa.
5
Đối với yêu cầu khởi kiện của ông L và bà L1 buộc ông H và bà H1 phải có
nghĩa vụ trả nợ cho ông L và bà L1 toàn bộ số tiền nợ gốc là 8.000.000.000 đồng
(Tám tỷ đồng chẵn) và lãi theo quy định của pháp luật và theo thỏa thuận trong Hợp
đồng cho vay ngày 05/10/2022 với lãi xuất không quá 20%/năm thì ông H và bà H1
xác nhận có nợ của ông L và bà L1 toàn bộ số tiền nợ gốc là 8.000.000.000 đồng
(Tám tỷ đồng chẵn) và chỉ đồng ý trả nợ gốc cho ông L và bà L1. Còn đối với số tiền
lãi theo yêu cầu của ông L và bà L1 đơn thì ông H, bà H1 đề nghị giải quyết theo quy
định pháp luật.
Trường hợp ông H và bà H1 không trả được nợ cho ông L và bà L1 thì ông H
và bà H1 đồng ý ông L và bà L1 yêu cầu Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát mại
tài sản thế chấp là Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 2, tờ
bản đồ số 44, diện tích 81m
2
tại Khu đô thị mới, thị trấn L, huyện T, tỉnh Bắc Ninh
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất số CC 217802 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày
09/03/2016, vào sổ cấp GCN số CS 00631 mang tên ông Nguyễn Sỹ H và bà Nguyễn
Thị H1 và Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 4, tờ bản đồ
số 44, diện tích 81m
2
tại Khu đô thị mới, thị trấn L, huyện T, tỉnh Bắc Ninh theo
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất số CC 217815 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 09/03/2016, vào
sổ cấp GCN số CS 00644 mang tên ông Nguyễn Sỹ H và bà Nguyễn Thị H1 để trả
nợ cho ông L và bà L1.
Tại phiên tòa, ông H vẫn giữ nguyên quan điểm mà vợ chồng ông H và bà L1
đã trình bày. Ông H xác nhận đã trả số tiền 480.000.000 đồng tiền lãi /3 tháng.
Ngoài ra, ông H không có ý kiến hay yêu cầu gì khác.
Tại phiên tòa, đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du phát biểu ý kiến
đã đánh giá việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án
của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa là đúng pháp luật. Việc tuân theo
pháp luật của nguyên đơn là đúng pháp luật, bị đơn là bà Nguyễn Thị H1 là chưa
đúng pháp luật.
Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điều 26, điều 35, điều 217,
điều 244 và điểm c, khoản 1, điều 39 BLTTDS; căn cứ điều 116, 158, 166, 357,
463, 464, 465, 466, 468 BLDS năm 2015; Áp dụng Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định
về án phí, lệ phí Toà án;
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Khổng Doãn L và bà Nguyễn Thị
Phương L1.
6
Buộc ông Nguyễn Sỹ H và bà Nguyễn Thị H1 phải có nghĩa vụ trả nợ cho ông
Khổng Doãn L và bà Nguyễn Thị Phương L1 số tiền gốc còn nợ là 7.918.400.000
đồng (Bảy tỷ chín trăm mười tám triệu bốn trăm ngàn đồng) và tiền lãi là
3.312.460.274 đồng (Ba tỷ ba trăm mười hai triệu bốn trăm sáu mươi ngàn hai trăm
bảy mươi tư đồng). Tổng là 11.230.860.274 đồng (Mười một tỷ hai trăm ba mươi
triệu tám trăm sáu mươi ngàn hai trăm bảy mươi tư đồng).
Sau khi ông Nguyễn Sỹ H và bà Nguyễn Thị H1 hoàn tất nghĩa vụ thanh toán
nợ nêu trên thì ông Khổng Doãn L và bà Nguyễn Thị Phương L1 có trách nhiệm trả
lại toàn bộ bản chính giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp cho ông Nguyễn Sỹ H và
bà Nguyễn Thị H1.
Trường hợp ông Nguyễn Sỹ H và bà Nguyễn Thị H1 không trả được nợ cho
ông Khổng Doãn L và bà Nguyễn Thị Phương L1 thì ông Khổng Doãn L và bà
Nguyễn Thị Phương L1 có quyền yêu cầu Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát
mại tài sản thế chấp là Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 2,
tờ bản đồ số 44, diện tích 81m
2
tại Khu đô thị mới, thị trấn L, huyện T, tỉnh Bắc
Ninh theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất số CC 217802 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày
09/03/2016, vào sổ cấp GCN số CS 00631 mang tên ông Nguyễn Sỹ H và bà Nguyễn
Thị H1 theo Hợp đồng cho vay tiền và thế chấp bằng quyền sử dụng đất được công
chứng số 3772; Quyển số 05/2022 TP/CC-SCC/HĐGD ký ngày 05/10/2022 tại Văn
phòng C và Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 4, tờ bản đồ
số 44, diện tích 81m
2
tại Khu đô thị mới, thị trấn L, huyện T, tỉnh Bắc Ninh theo
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất số CC 217815 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 09/03/2016, vào
sổ cấp GCN số CS 00644 mang tên ông Nguyễn Sỹ H và bà Nguyễn Thị H1 theo
Hợp đồng cho vay tiền và thế chấp bằng quyền sử dụng đất được công chứng số
3771; Quyển số 05/2022 TP/CC-SCC/HĐGD ký ngày 05/10/2022 tại Văn phòng C.
Số tiền thu được sau khi phát mãi tài sản nếu không đủ để trả nợ cho ông Khổng
Doãn L và bà Nguyễn Thị Phương L1 thì ông Nguyễn Sỹ H và bà Nguyễn Thị H1 có
trách nhiệm tiếp tục trả nợ cho đến khi đủ cho ông Khổng Doãn L và bà Nguyễn Thị
Phương L1, trường hợp còn dư thì trả lại cho ông Nguyễn Sỹ H và bà Nguyễn Thị
H1.
Đình chỉ đối với yêu cầu lãi trên nợ lãi quá hạn số tiền là 49.600.000 đồng của
ông Khổng Doãn L và bà Nguyễn Thị Phương L1.
7
Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Ông Nguyễn Sỹ H và
bà Nguyễn Thị H1 phải chịu toàn bộ chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá
tài sản.
Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Sỹ H và bà Nguyễn Thị H1 phải chịu toàn
bộ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên
tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; HĐXX nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Ngày 05/3/2024, Tòa án
nhân dân huyện Tiên Du nhận được đơn khởi kiện của ông Khổng Doãn L và bà
Nguyễn Thị Phương L1 khởi kiện đối với ông Nguyễn Sỹ H và bà Nguyễn Thị H1
về việc ông Khổng Doãn L và bà Nguyễn Thị Phương L1 yêu cầu ông Nguyễn Sỹ H
và bà Nguyễn Thị H1 phải trả ông Khổng Doãn L và bà Nguyễn Thị Phương L1 số
tiền gốc là 8.000.000.000 đồng (Tám tỷ đồng chẵn) và số tiền lãi tạm tính từ ngày
05/11/2022 đến ngày 05/3/2024, tổng cộng số tiền tạm tính 10.649.888.000 đồng
(Mười tỷ sáu trăm bốn mươi chín triệu tám trăm tám mươi tám nghìn đồng) mà các
bên thoả thuận theo 02 Hợp đồng cho vay tiền và thế chấp bằng quyền sử dụng đất
ngày 05/10/2022. Tòa án nhân dân huyện Tiên Du đã thụ lý vụ án với quan hệ pháp
luật là “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”. Bị đơn là ông Nguyễn Sỹ H và bà Nguyễn
Thị H1 đang cư trú trên địa bàn huyện T, tỉnh Bắc Ninh nên vụ án thuộc thẩm quyền
của Tòa án nhân dân huyện Tiên Du quy định tại khoản 3 Điều 26, Điều 35, Điều 39
Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về thủ tục tố tụng: Ngày 30/7/2024, Tòa án mở phiên tòa xét xử nhưng ông
Nguyễn Sỹ H và bà Nguyễn Thị H1 vắng mặt lần thứ nhất không có lý do. Để đảm
bảo quyền lợi đương sự, Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa xét xử vào ngày 30/7/2024
ấn định lịch xét xử vào hồi 7 giờ 30 phút ngày 28/8/2024. Tuy nhiên bà Nguyễn Thị
H1 tiếp tục vắng mặt lần thứ hai không có lý do, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ
án vắng mặt bà Nguyễn Thị H1 là phù hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227,
Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
[ 3]. Về nội dung:
* Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Khổng Doãn L và bà Nguyễn Thị
Phương L1 đề nghị Tòa án giải quyết buộc vợ chồng ông Nguyễn Sỹ H và bà
Nguyễn Thị H1 phải trả cho vợ chồng ông Nguyễn Sỹ H và bà Nguyễn Thị H1 toàn
bộ số nợ gốc là 8.000.000.000 đồng (Tám tỷ đồng chẵn) và số lãi theo thỏa thuận tại
hợp đồng và theo quy định của pháp luật kể từ thời điểm các bên xác nhận công nợ
8
tại theo 02 Hợp đồng cho vay tiền và thế chấp bằng quyền sử dụng đất ngày
05/10/2022 (dương lịch) đến ngày hẹn trả nợ 1 năm (tức 12 tháng đến hết ngày
05/10/2023) của ông Khổng Doãn L và bà Nguyễn Thị Phương L1 yêu cầu ông
Nguyễn Sỹ H và bà Nguyễn Thị H1:
Ngày 05/10/2022, ông L và bà L1 có cho ông H và bà H1 vay tổng số tiền gốc
là 8.000.000.000 đồng (Tám tỷ đồng chẵn) bằng việc ông L và bà L1 đã cùng ông H
và bà H1 đã ký kết 02 Hợp đồng cho vay tiền và thế chấp bằng quyền sử dụng đất cụ
thể như sau:
- Hợp đồng cho vay tiền và thế chấp bằng quyền sử dụng đất ngày 05/10/2022
được công chứng số 3771; Quyển số 05/2022 TP/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng C.
Theo đó, vợ chồng ông L bà L1 đã cho vợ chồng ông H và bà H1 vay số tiền gốc là:
4.000.000.000 đồng (Bốn tỷ đồng); Thời hạn vay là 01 năm kể từ ngày 05/10/2022
đến hết ngày 05/10/2023 với lãi suất do hai bên thoả thuận không quá 20%/năm. Các
bên thống nhất thanh toán lãi suất hàng tháng vào ngày cuối cùng của tháng đó.
- Hợp đồng cho vay tiền và thế chấp bằng quyền sử dụng đất ngày 05/10/2022
được công chứng số 3772; Quyển số 05/2022 TP/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng C.
Theo đó, vợ chồng ông L bà L1 đã cho vợ chồng ông H và bà H1 vay số tiền gốc là:
4.000.000.000 đồng (Bốn tỷ đồng); thời hạn vay là 01 năm kể từ ngày 05/10/2022
đến ngày 05/10/2023 với lãi suất do hai bên thoả thuận không quá 20%/năm. Các
bên thống nhất thanh toán lãi suất hàng tháng vào ngày cuối cùng của tháng đó. Ông
H, bà H1 có ký 02 Hợp đồng cho vay tiền và thế chấp bằng quyền sử dụng đất ngày
05/10/2022 trên vay tiền ông L và bà L1 tổng số tiền gốc là 8.000.000.000 đồng
(Tám tỷ đồng chẵn). Nội dung giấy vay tiền thể hiện thời hạn trả nợ là 1 năm (tức
đến hết ngày 05/10/2023) thì ông H và bà H1 phải trả đủ số tiền gốc vay cho ông L
và bà L1.
Tại phiên tòa hôm nay, ông L và bà L1 vẫn giữ nguyên quan điểm yêu cầu ông
H và bà H1 phải có nghĩa vụ trả cho vợ chồng ông L và bà L1 toàn bộ số nợ gốc và
số lãi theo thỏa thuận tại hợp đồng cho vay tiền và theo quy định của pháp luật, cụ
thể: Nợ gốc: 8.000.000.000 đồng (Tám tỷ đồng chẵn); Tiền lãi trên nợ gốc trong hạn
theo lãi suất thoả thuận tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả kể từ ngày
05/01/2023 đến ngày 05/10/2023 (09 tháng) với lãi suất 20%/năm, số tiền là
8.000.000.000 đồng x 1,66%/tháng x 09 tháng = 1.195.200.000 đồng; Lãi trên nợ
gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian
chậm trả theo điểm b khoản 5 Điều 466 Bộ luật dân sự 2015 là 8.000.000.000 đồng x
150% x 20%/365 ngày x 10 tháng 22 ngày = 2.117.260.274 đồng. Khoản tiền lãi
vượt quá trong 03 tháng mà ông H và bà H1 đã trả cho ông L và bà L1 được trừ vào
9
số nợ gốc là 81.600.000 đồng. Tổng cộng số tiền nợ tạm tính đến ngày 28/8/2024
là 11.230.860.274 đồng (Mười một tỷ hai trăm ba mươi triệu tám trăm sáu mươi
ngàn hai trăm bảy mươi tư đồng). Ông L và bà L1 xin rút toàn bộ yêu cầu đối với
khoản tiền lãi trên nợ lãi chưa trả theo điểm b khoản 2 Điều 5 Nghị quyết
01/2019/NQ-HĐTP với số tiền là 49.600.000 đồng.
* Đối với yêu cầu đòi nợ gốc của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy:
Tại Hợp đồng cho vay tiền và thế chấp bằng quyền sử dụng đất ngày
05/10/2022 được công chứng số 3771; Quyển số 05/2022 TP/CC-SCC/HĐGD tại
Văn phòng C và Hợp đồng cho vay tiền và thế chấp bằng quyền sử dụng đất ngày
05/10/2022 được công chứng số 3772; Quyển số 05/2022 TP/CC-SCC/HĐGD tại
Văn phòng C thể hiện ông L và bà L1 cho H và bà H1 vay số tiền gốc là
8.000.000.000 đồng (Tám tỷ đồng chẵn). Ông H, bà H1 đều xác nhận phần chữ ký và
chữ viết bên mục “Bên vay” tại 02 Hợp đồng cho vay tiền và thế chấp bằng quyền sử
dụng đất ngày 05/10/2022 đúng là chữ ký và chữ viết của Ông H, bà H1. Ông H, bà
H1 cũng thừa nhận có nợ vợ chồng ông L và bà L1 số tiền gốc là 8.000.000.000
đồng (Tám tỷ đồng chẵn) theo 02 Hợp đồng cho vay tiền và thế chấp bằng quyền sử
dụng đất ngày 05/10/2022 như ông L và bà L1 yêu cầu là đúng. Do ông L và bà L1
với ông H và bà H1 xác lập giao dịch vay tiền từ ngày 05/10/2022 (dương lịch). Điều
này chứng tỏ, giao dịch dân sự giữa ông L và bà L1 với ông H và bà H1 là hợp pháp.
Như vậy, có thể khẳng định ông H và bà H1 có nợ của ông L và bà L1 số tiền gốc là
8.000.000.000 đồng (Tám tỷ đồng chẵn). Tại phiên tòa hôm nay, ông L và bà L1 vẫn
giữ nguyên yêu cầu buộc ông H và bà H1 phải trả số tiền nợ gốc là 8.000.000.000
đồng (Tám tỷ đồng chẵn), sau khi trừ đi số tiền lãi vượt quá trong 03 tháng mà ông
H và bà H1 đã trả cho ông L và bà L1 là 81.600.000 đồng vào số tiền gốc mà ông H
và bà H1 đang nợ ông L và bà L1 theo yêu cầu của ông L và bà L1 thì số tiền gốc
ông H và bà H1 còn nợ ông L và bà L1 là 7.918.400.000 đồng là có căn cứ chấp
nhận.
* Đối với yêu cầu trả tiền lãi:
- Đối với yêu cầu trả tiền lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất các bên đã
thỏa thuận tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả kể từ ngày 05/11/2022
đến ngày 05/10/2023 (9 tháng) với lãi suất 20%/năm số tiền là 8.000.000.000 đồng x
1,66%/tháng x 09 tháng = 1.195.200.000 đồng thì thấy: Trong 02 Hợp đồng cho vay
tiền và thế chấp bằng quyền sử dụng đất ngày 05/10/2022 có thoả thuận trả lãi do các
bên tự thoả thuận không được vượt quá quy định của pháp luật ( không vượt quá
20%/năm), thoả thuận lãi phù hợp với quy định của pháp luật. Ông H và bà H1 cũng
trình bày về việc có phải chịu lãi suất nhưng không đồng ý trả tiền lãi cho ông L và
10
bà L1 nên xác định đây là hợp đồng vay thỏa thuận về xác định lãi xuất. Do đó cần
áp dụng khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015 để xác định lãi xuất trong trường hợp
này=20% /năm của khoản tiền vay. Do các bên thực hiện việc vay tiền từ ngày
05/10/2022 nên số tiền lãi xác định được tính từ ngày 05/10/2022 cho đến ngày
05/10/2023 là 11 tháng nhưng ông H và bà H1 đã trả 03 tháng tiền lãi với số tiền
160.000.000 đồng. Vì vậy việc ông L và bà L1 yêu cầu ông H và bà H1 phải có
nghĩa vụ trả số tiền lãi là 20%/năm tạm tính từ ngày 05/10/2022 cho đến ngày xét xử
05/10/2023 (09 tháng) là 1.195.200.000 đồng là có căn cứ chấp nhận.
- Đối với yêu cầu trả lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay
theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả theo điểm b khoản 5 Điều 466 Bộ
luật dân sự 2015 là 8.000.000.000 đồng x 150% x 20%/365 ngày x 10 tháng 22 ngày
= 2.117.260.274 đồng thì thấy: Theo quy định tại điểm a, điểm 5 Điều 466 “ Nghĩa
vụ trả nợ của bên vay” Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả
hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như sau: b) Lãi trên nợ gốc quá hạn
chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác. Do đó cần áp dụng điểm a, điểm 5 Điều 466 Bộ luật
dân sự 2015 để xác định lãi xuất trong trường hợp này=150% mức lãi xuất quy định
(tức 15%/năm). Do các bên thực hiện việc vay tiền chậm trả từ ngày 05/10/2023 nên
số tiền lãi xác định được tính từ ngày 05/10/2023 cho đến khi thanh toán xong nợ.
Tại phiên tòa hôm nay, ông L và bà L1 vẫn giữ nguyên yêu cầu buộc ông H và bà H1
phải trả tiền lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng
tương ứng với thời gian chậm trả theo điểm b khoản 5 Điều 466 Bộ luật dân sự 2015
với số tiền 2.117.260.274 đồng là có căn cứ chấp nhận.
- Đối với khoản tiền lãi trên nợ lãi chưa trả theo điểm b khoản 2 Điều 5 Nghị
quyết 01/2019/NQ-HĐTP= (nợ lãi chưa trả) x (lãi suất quy định tại khoản 2 Điều
468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 tại thời điểm trả nợ) x (thời gian chậm trả tiền lãi
trên nợ gốc kể từ ngày 05/10/2023 đến ngày 05/3/2024)= 1.195.200.000 đồng x
0,83% x 5 tháng = 49.600.000 đồng thì tại phiên tòa ông L và bà L1 xin rút không
yêu cầu ông H và bà H1 phải trả khoản tiền lãi trên nên không giải quyết là phù hợp.
- Đối với khoản tiền lãi vượt quá trong 03 tháng mà ông H và bà H1 đã trả cho
ông L và bà L1 là 81.600.000 đồng thì thấy: Theo các đương sự trình bày thì ông H
và bà H1 đã trả cho ông L và bà L1 được 3 tháng tiền lãi (tháng 10,11,12/2022) với
tổng số tiền là 160.000.000 đồng. Như vậy số tiền lãi mà ông H và bà H1 phải trả
cho ông L và bà L1 03 tháng là số tiền là 8.000.000.000 đồng x 1,66%/tháng x 3
tháng = 398.400.000 đồng. Do vậy số tiền lãi vượt quá trong 03 tháng mà ông H và
bà H1 đã trả cho ông L và bà L1 là 81.600.000 đồng. Theo quy định tại khoản 1 Điều
11
468 Bộ luật Dân sự 2015thì trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới
hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực. Do
phía bị đơn ông H và bà H1 không có yêu cầu gì về khoản tiền lãi này. Để đảm bảo
quyền lợi cho các các đương sự do vậy số tiền lãi vượt quá trong 03 tháng mà ông H
và bà H1 đã trả cho ông L và bà L1 là 81.600.000 đồng sẽ được trừ vào số tiền gốc
mà ông H và bà H1 đang nợ ông L và bà L1 theo yêu cầu của ông L và bà L1 là phù
hợp.
Phía ông H và bà H1 (vắng mặt tại phiên tòa) đều thừa nhận có vay vợ chồng
ông L và bà L1 số tiền gốc là 8.000.000.000 đồng (Tám tỷ đồng chẵn) thể hiện tại 02
Hợp đồng cho vay tiền và thế chấp bằng quyền sử dụng đất ngày 05/10/2022 (dương
lịch). Ông H và bà H1 chỉ đồng ý trả số tiền vay gốc, còn số tiền lãi do làm ăn khó
khăn quá nên ông H và bà H1 không thể có tiền để thanh toán tiền lãi được, cũng
không đưa ra được căn cứ chứng minh. Do đó, đối với việc ông H và bà H1 cho rằng
chỉ trả số tiền vay gốc còn không đồng ý trả tiền lãi do làm ăn khó khăn là không có
căn cứ chấp nhận.
Do phía bị đơn vi phạm nghĩa vụ trả nợ, do vậy cần chấp nhận về yêu cầu lãi
suất mà phía nguyên đơn đưa ra gồm: Tiền lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất
các bên đã thỏa thuận tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả là
1.195.200.000 đồng; Tiền lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay
theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả là 2.117.260.274 đồng . Tổng số tiền
lãi được xác định là 3.312.460.274 đồng (Ba tỷ ba trăm mười hai triệu bốn trăm sáu
mươi ngàn hai trăm bảy mươi tư đồng).
Về yêu cầu xử lý tài sản thế chấp: Để đảm bảo thực hiện Hợp đồng cho vay tiền
trên, vợ chồng ông H và bà H1 đã thế chấp tài sản hợp pháp của mình là quyền sử
dụng đất đối với Thửa đất số 4, tờ bản đồ số 44, diện tích 81m
2
tại Khu đô thị mới,
thị trấn L, huyện T, tỉnh Bắc Ninh theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CC 217815, vào sổ cấp GCN số CS
00644 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 09/03/2016 mang tên ông
Nguyễn Sỹ H và bà Nguyễn Thị H1 và Q sử dụng đất đối với Thửa đất số 2, tờ bản
đồ số 44, diện tích 81m
2
tại Khu đô thị mới, thị trấn L, huyện T, tỉnh Bắc Ninh theo
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất số CC 217802, vào sổ cấp GCN số CS 00631 do Sở Tài nguyên và Môi trường
tỉnh B cấp ngày 09/03/2016 mang tên ông Nguyễn Sỹ H và bà Nguyễn Thị H1.
Theo đơn đề nghị của nguyên đơn, Toà án đã tiến hành xem xét thẩm định và
định giá tài sản đối với các tài sản thế chấp nêu trên. Qua xem xét thẩm định xác
định: Thửa đất số 4, tờ bản đồ số 44, diện tích 81m
2
tại Khu đô thị mới, thị trấn L,
12
huyện T, tỉnh Bắc Ninh theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
ở và tài sản khác gắn liền với đất số CC 217815, vào sổ cấp GCN số CS 00644 do Sở
Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 09/03/2016 mang tên ông Nguyễn Sỹ H
và bà Nguyễn Thị H1 và Thửa đất số 2, tờ bản đồ số 44, diện tích 81m
2
tại Khu đô
thị mới, thị trấn L, huyện T, tỉnh Bắc Ninh theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CC 217802, vào sổ cấp GCN
số CS 00631 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 09/03/2016 mang tên
ông Nguyễn Sỹ H và bà Nguyễn Thị H1. Do phía bị đơn vắng mặt, cửa khoá nên hội
đồng không tiến hành xem xét mô tả và đo đạc hiện trạng bên trong được mà chỉ
quan sát bên ngoài. Tuy nhiên các đương sự đều xác định các tài sản trên 02 thửa đất
do ông H, bà H1 thế chấp cho ông L, bà L1 vẫn giữ nguyên so với tại thời điểm ông
H, bà H1 thế chấp cho ông L, bà L1.
Hội đồng xét xử xét thấy: Việc thế chấp tài sản để bảo đảm cho khoản vay của
ông H, bà H1 là hoàn tự nguyện không bị ép buộc và không trái đạo đức xã hội. Tài
sản của ông ông H, bà H1 thế chấp có nguồn gốc rõ ràng và tại thời điểm thế chấp
không tranh chấp với ai. Hợp đồng thế chấp được công chứng nên có hiệu lực từ thời
điểm công chứng. Như vậy, về hình thức và nội dung của hợp đồng thế chấp nêu trên
là đúng quy định của pháp luật. Hợp đồng thế chấp đúng quy định tại Điều 22, Điều
35 Nghị định số 21/2021/ ngày 19/3/2021 của Chính phủ quy định thi hành Bộ luật
dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Theo Thoả thuận giữa ông L và/ bà L1 với
ông H và bà H1 tại 02 Hợp đồng cho vay tiền và thế chấp bằng quyền sử dụng đất
ngày 05/10/2022 được công chứng số 3771; số 3772 tại Văn phòng C thể hiện nội
dung ‘‘điểm 4 điều 4: Các bên thoả thuận: Nếu không trả đúng thời hạn đã cam kết
trong hợp đồng này sau 30 ngày thì bên A có quyền thanh lý hợp đồng và xử lý
quyền sử dụng đất trên của bên B để thu hồi tiền hoặc đề nghị Cơ quan có thẩm
quyền giải quyết theo quy định của pháp luật”. Tuy nhiên, do các bên thực hiện thế
chấp tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất nhưng không thực hiện đăng ký biện pháp
bảo đảm thế chấp quyền sử dụng đất tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền để ghi nội
dung đăng ký vào sổ đăng ký nên biện pháp bảo đảm thế chấp quyền sử dụng đất
chưa có hiệu lực pháp luật.Nên ông L bà L1 không thể yêu cầu cơ quan nhà nước xử
lý tài sản bảo đảm.
Mặc dù vậy, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, ông H và bà H1 đều tự
nguyện đồng ý để cho ông L và và L1 đề nghị Cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử
lý tài sản thế chấp là Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 2,
tờ bản đồ số 44, diện tích 81m
2
tại Khu đô thị mới, thị trấn L, huyện T, tỉnh Bắc
Ninh và quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 4, tờ bản đồ số
44, diện tích 81m
2
tại Khu đô thị mới, thị trấn L, huyện T, tỉnh Bắc Ninh để trả nợ
13
cho ông L và bà L1. Việc tự nguyện của ông H và bà H1 không trái pháp luật, vi
phạm đạo đức nên ghi nhận sự tự nguyện yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của ông H và
bà H1 là quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 4, tờ bản đồ số 44, diện tích 81m
2
tại
Khu đô thị mới, thị trấn L, huyện T, tỉnh Bắc Ninh theo Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CC 217815, vào sổ
cấp GCN số CS 00644 do Sở T ngày tỉnh Bắc Ninh cấp ngày 09/03/2016 mang tên
ông Nguyễn Sỹ H và bà/ Nguyễn Thị H1 và Quyền sử dụng đất đối với Thửa đất số
2, tờ bản đồ số 44, diện tích 81m
2
tại Khu đô thị mới, thị trấn L, huyện T, tỉnh Bắc
Ninh theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất số CC 217802, vào sổ cấp GCN số CS 00631 do Sở Tài nguyên và
Môi trường tỉnh B cấp ngày 09/03/2016 mang tên ông Nguyễn Sỹ H và bà Nguyễn
Thị H1 cho ông L bà L1 trong trường hợp không trả được tiền.
Đối với yêu cầu xử lý toàn bộ tài sản trên 02 thửa đất: Tại buổi xem xét thẩm
định và định giá tài sản, do phía bị đơn vắng mặt, cửa khoá nên hội đồng không tiến
hành xem xét mô tả và đo đạc hiện trạng bên trong được mà chỉ quan sát bên ngoài.
Tuy nhiên các đương sự đều xác định các tài sản trên 02 thửa đất do ông H, bà H1
thế chấp cho ông L, bà L1 vẫn giữ nguyên so với tại thời điểm ông H, bà H1 thế
chấp cho ông L, bà L1. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, ông H và bà H1
cũng tự nguyện đồng ý đề nghị Cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý tài sản thế
chấp là Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 2, tờ bản đồ số
44, diện tích 81m
2
tại Khu đô thị mới, thị trấn L, huyện T, tỉnh Bắc Ninh và quyền
sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 4, tờ bản đồ số 44, diện tích
81m
2
tại Khu đô thị mới, thị trấn L, huyện T, tỉnh Bắc Ninh để trả nợ cho ông L và
bà L1. Nên ghi nhận sự tự nguyện của ông H bà H1 xử lý toàn bộ tài sản trên thửa
đất số 4, tờ bản đồ số 44, diện tích 81m
2
tại Khu đô thị mới, thị trấn L, huyện T, tỉnh
Bắc Ninh và thửa đất số 2, tờ bản đồ số 44, diện tích 81m
2
tại Khu đô thị mới, thị
trấn L, huyện T, tỉnh Bắc Ninh mà ông H và bà H1 đã thế chấp cho ông L và bà L1
là phù hợp.
* Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ tài sản: Ông H và bà H1 phải chịu toàn
bộ chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản.
Về án phí: Yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận, hoàn trả nguyên đơn số
tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Du. Bị đơn
phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
14
Áp dụng các Điều 26, 35, 39, 143, 144, 147, 217, 244, 235, 264, 266, 267, 271,
273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Áp dụng các Điều 116, 117, 385, 400; 429, 463, 466, 468, 470; khoản 1 Điều
688 Bộ luật dân sự năm 2015;
Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.
Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Khổng Doãn L và bà Nguyễn
Thị Phương L1.
Buộc ông Nguyễn Sỹ H và bà Nguyễn Thị H1 phải có nghĩa vụ trả nợ cho ông
Khổng Doãn L và bà Nguyễn Thị Phương L1 số tiền gốc còn nợ là 7.918.400.000
đồng (Bảy tỷ chín trăm mười tám triệu bốn trăm ngàn đồng) và tiền lãi là
3.312.460.274 đồng (Ba tỷ ba trăm mười hai triệu bốn trăm sáu mươi ngàn hai trăm
bảy mươi tư đồng). Tổng là 11.230.860.274 đồng (Mười một tỷ hai trăm ba mươi
triệu tám trăm sáu mươi ngàn hai trăm bảy mươi tư đồng).
Sau khi ông Nguyễn Sỹ H và bà Nguyễn Thị H1 hoàn tất nghĩa vụ thanh toán
nợ nêu trên thì ông Khổng Doãn L và bà Nguyễn Thị Phương L1 có trách nhiệm trả
lại toàn bộ bản chính giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp cho ông Nguyễn Sỹ H và
bà Nguyễn Thị H1.
Ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Sỹ H và bà Nguyễn Thị H1 về việc
trong trường hợp ông Nguyễn Sỹ H và bà Nguyễn Thị H1 không trả được nợ cho
ông Khổng Doãn L và bà Nguyễn Thị Phương L1 thì ông Khổng Doãn L và bà
Nguyễn Thị Phương L1 có quyền yêu cầu Cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý tài
sản thế chấp là Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 2, tờ bản
đồ số 44, diện tích 81m
2
tại Khu đô thị mới, thị trấn L, huyện T, tỉnh Bắc Ninh theo
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất số CC 217802 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 09/03/2016, vào
sổ cấp GCN số CS 00631 mang tên ông Nguyễn Sỹ H và bà Nguyễn Thị H1 theo
Hợp đồng cho vay tiền và thế chấp bằng quyền sử dụng đất được công chứng số
3772; Quyển số 05/2022 TP/CC-SCC/HĐGD ký ngày 05/10/2022 tại Văn phòng C
và Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 4, tờ bản đồ số 44,
diện tích 81m
2
tại Khu đô thị mới, thị trấn L, huyện T, tỉnh Bắc Ninh theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
số CC 217815 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 09/03/2016, vào sổ
cấp GCN số CS 00644 mang tên ông Nguyễn Sỹ H và bà Nguyễn Thị H1 theo Hợp
đồng cho vay tiền và thế chấp bằng quyền sử dụng đất được công chứng số 3771;
Quyển số 05/2022 TP/CC-SCC/HĐGD ký ngày 05/10/2022 tại Văn phòng C.
15
Số tiền thu được sau khi xử lý tài sản nếu không đủ để trả nợ cho ông Khổng
Doãn L và bà Nguyễn Thị Phương L1 thì ông Nguyễn Sỹ H và bà Nguyễn Thị H1 có
trách nhiệm tiếp tục trả nợ cho đến khi đủ cho ông Khổng Doãn L và bà Nguyễn Thị
Phương L1, trường hợp còn dư thì trả lại cho ông Nguyễn Sỹ H và bà Nguyễn Thị
H1.
Đình chỉ đối với yêu cầu lãi trên nợ lãi quá hạn số tiền là 49.600.000 đồng của
ông Khổng Doãn L và bà Nguyễn Thị Phương L1.
Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu
thi hành án cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng người phải thi hành án còn phải
chịu lãi suất đối với số tiền chưa thi hành án theo quy định tại Điều 468 của Bộ luật
dân sự năm 2015.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi
hành án dân sự thì người đượcthi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc
bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự;
thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân
sự.
Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Ông Nguyễn Sỹ H và
bà Nguyễn Thị H1 phải chịu 14.500.000 đồng chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và
định giá tài sản. Ông Nguyễn Sỹ H và bà Nguyễn Thị H1 có nghĩa vụ trả cho
ông Khổng Doãn L và bà Nguyễn Thị Phương L1 số tiền 14.500.000 đồng chi phí
xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản.
Về án phí: Ông Nguyễn Sỹ H và bà Nguyễn Thị H1 phải chịu 119.231.000
đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho ông Khổng Doãn L và bà Nguyễn Thị
Phương L1 59.325.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án
phí, lệ phí Toà án Ký hiệu: BLTU/23, Số: 0001318 ngày 06/3/2024 của Chi cục Thi
hành án dân sự huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.
Các đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên
án.
Các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận
được tống đạt kết quả bản án vắng mặt.
Nơi nhận: TM.HỘI ĐỒNGXÉTXỬSƠ THẨM
- TAND tỉnh Bắc Ninh. Thẩm phán - chủ toạ phiên toà
- VKS h. Tiên Du.
- THADS h. Tiên Du.
- Người tham gia tố tụng.
- Lưu hồ sơ.
16
Trần Văn Quang
CÁC HỘI THẨM NHÂN DÂN THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
17
Trần Quang Lưu Lê Thị Xuân Trần Văn Quang
18
7.918.400.000 đồng (Bảy tỷ chín trăm mười tám triệu bốn trăm ngàn đồng).
Tải về
Quyết định số 26/2024/QĐST-DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quyết định số 26/2024/QĐST-DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 14/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm