Quyết định số 173/2025/QĐ-PT ngày 25/02/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Quyết định số 173/2025/QĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Quyết định số 173/2025/QĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Quyết định 173/2025/QĐ-PT
Tên Quyết định: | Quyết định số 173/2025/QĐ-PT ngày 25/02/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 173/2025/QĐ-PT |
Loại văn bản: | Quyết định |
Ngày ban hành: | 25/02/2025 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | GIỮ NGUYÊN QUYẾT ĐỊNH ĐINH CHỈ |
Tóm tắt Quyết định
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Số: 173/2025/QĐ-PT
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 02 năm 2025.
QUYẾT ĐỊNH
GIẢI QUYẾT VIỆC KHÁNG CÁO
ĐỐI VỚI QUYẾT ĐỊNH ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên họp: Bà Hồ Thị Thanh Thúy
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Minh
Ông Phan Tô Ngọc
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham
gia phiên họp: Ông Đỗ Phước Trung - Kiểm sát viên.
Tại Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính sơ thẩm số
300/2024/QĐST-HC ngày 19 tháng 7 năm 2024, Tòa án nhân dân Thành phố
Hồ Chí Minh căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 123, điểm g khoản 1 Điều 143
của Luật Tố tụng hành chính, Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính
về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính”, giữa:
- Người khởi kiện: Bà Phạm Thị T, sinh năm 1968;
Địa chỉ: Số E Đường A, ấp A, xã T, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người bị kiện: Ủy ban nhân dân Thành phố H.
Địa chỉ: H L, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Tại đơn kháng cáo ngày 22 tháng 8 năm 2024, người khởi kiện là bà Phạm
Thị T kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy Quyết định đình chỉ giải
quyết vụ án hành chính nêu trên và chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm tiếp
tục giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát
biểu quan điểm: Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ giải quyết vụ án là có cơ sở. Tại
cấp phúc thẩm, người khởi kiện kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng
cứ nào mới chứng minh nên đề nghị Hội đồng phúc thẩm bác kháng cáo và giữ
nguyên Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm.
XÉT THẤY:
[1] Theo đơn khởi kiện, bà Phạm Thị T trình bày: Vào năm 1990, mẹ của
bà T là bà Nguyễn Thị N nhận sang nhượng phần đất diện tích 1,7ha (sau này đo
đạc thực tế là 1.580m
2
) tại xã T của bà Nguyễn Thị A và bà Nguyễn Thị L,
nguồn gốc đất do bà A và bà L tự khai phá từ trước 1975. Từ năm 1990 đến nay,
gia đình bà T canh tác ổn định tại phần đất trên, có thực hiện nghĩa vụ nộp thuế
2
sử dụng đất. Mẹ bà T là bà Nguyễn Thị N đã nhiều lần nộp đơn xin cấp Giấy
chứng nhận quyên sử dụng đất đối với phần diện tích trên nhưng vì nhiều lý do
đã bị Ủy ban nhân dân huyện T1 cấp. Ngày 03/7/1995, Ủy ban nhân dân huyện
C ban hành Quyết định số 194/QĐ-UB thu hồi phần diện tích 1.580m
2
và cấp lại
cho bà N diện tích 1.000/2.580m
2
. Ngày 01/02/1999, Ủy ban nhân dân Thành
phố H ban hành Quyết định số 703/QĐ-UB-NC công nhận Quyết định số
194/QĐ-UB ngày 03/7/1995 của Ủy ban nhân dân huyện C là đúng pháp luật.
Tuy nhiên, gia đình bà không nhận được Quyết định trên. Từ năm 1995 đến nay,
do tuổi cao sức yếu nên bà N đã giao phần đất trên cho bà T trực tiếp sử dụng.
Bà N chết năm 2019. Nhận thấy Quyết định số 703/QĐ-UB-NC ngày
01/02/1999 của Ủy ban nhân dân Thành phố H gây thiệt hại đến quyền và lợi ích
của bà là người trực tiếp sử dụng phần đất diện tích 1.580m
2
tại xã T đã bị thu
hồi theo Quyết định số 703/QĐ-UB-NC, nay bà T khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy
Quyết định số 703/QĐ-UB-NC ngày 01/02/1999 của Ủy ban nhân dân Thành
phố H.
[2] Xét thấy, Quyết định số 703/QĐ-UB-NC ngày 01/02/1999 của Ủy ban
nhân dân Thành phố H về việc giải quyết đơn của bà Nguyễn Thị N khiếu nại
Quyết định số 254/QĐ-UB ngày 31/5/1997 của Ủy ban nhân dân huyện C có nội
dung: Công nhận quyết định số 254/QĐ-UB ngày 31/5/1997 của Ủy ban nhân
dân huyện C là đúng pháp luật. Quyết định số 254/QĐ-UB ngày 31/5/1997 của
Ủy ban nhân dân huyện C có nội dung: Nay công nhận Quyêt định số 194/QĐ-
UB ngày 03/7/1995 của Ủy ban nhân dân huyện C về việc xử lý tranh chấp phần
đất có diện tích 2.580m
2
tọa lạc tại Ấp A xã T là đúng. Công nhận quyền sử
dụng đất cho bà Nguyễn Thị N diện tích 1.000m
2
/2.580m
2
. Thu hồi diện tích
1.580m
2
phần còn lại do bà N bao chiếm và buộc bà Nguyễn Thị N phải giao
diện tích 1.580m
2
nêu trên cho Ủy ban nhân dân xã T quản lý theo luật định.
Tại khoản 1 Điều 115 Luật Tố tụng hành chính quy định về quyền khởi
kiện vụ án: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện vụ án đối với quyết
định hành chính, hành vi hành chinh, quyết định kỷ luật buộc thôi việc trong
trường hợp không đồng ý với quyết định, hành vi đó hoặc đã khiếu nại với
người có thẩm quyền giải quyết, nhưng hết thời hạn giải quyết theo quy định của
pháp luật mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyêt nhưng
không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại về quyết định, hành vi đó”.
Theo lời trình bày của bà Phạm Thị T thì từ năm 1995 đến nay, do tuổi cao
sức yếu nên bà N đã giao phần đất trên cho bà trực tiếp sử dụng, việc giao đất
không lập thành văn bản, nên bà Nguyễn Thị N không khiếu nại và cũng không
khởi kiện vụ án hành chính đối với Quyết định số 703/QĐ-UB-NC ngày
01/02/1999 của Ủy ban nhân dân Thành phố H. Năm 2019, bà N chết. Do Ủy
ban nhân dân xã T biết việc Ủy ban nhân dân huyện C phần diện tích 1.580m
2
nên từ chối chứng nhận Đơn xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (diện
tích 2.580m
2
) của gia đình bà, việc từ chối chứng nhận này bằng miệng, không
có văn bản. Tuy nhiên, bà T không cung cấp được tài liệu chứng cứ chứng minh
bà Nguyễn Thị N đã giao đất cho bà trực tiếp sử dụng cũng như việc Ủy ban
nhân dân xã T từ chối chứng nhận Đơn xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
3
đất (diện tích 2.580m
2
) của gia đình bà. Như vậy, có đủ cơ sở xác định bà Phạm
Thị T không có quyền khởi kiện Quyết định số 703/QĐ-UB-NC ngày
01/02/1999 của Ủy ban nhân dân Thành phố H.
[3] Mặt khác, do bà N không thực hiện Quyết định số 703/QĐ-UB-NC
ngày 01/02/1999 của Ủy ban nhân dân Thành phố H nên ngày 19/4/2002, Ủy
ban nhân dân huyện C đã tiến hành cưỡng chế đo đạc, cắm mốc diện tích
1580m
2
nêu trên giao cho Ủy ban nhân dân xã T quản lý, sử dụng. Giao bà N sử
dụng 1.000m
2
theo Quyết định số 703/QĐ-UB-NC. Sau khi cưỡng chế, bà
Lương Thị H, ông Tô K tiến hành lập hồ sơ hợp thức hóa quyền sử dụng đất,
được Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
862/QSDĐ/HTH ngày 18/6/2002 đối với diện tích 400m
2
cho bà Lương Thị H
và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 859/QSDĐ/HTH ngày 18/6/2002
diện tích 400m
2
cho ông Tô K.
Ngày 04/5/2018, Ủy ban nhân dân Thành phố H ban hành Công văn số
1879/UBND-NCPC về giải quyết khiếu nại của bà Nguyễn Thị N với nội dung:
Giao Ủy ban nhân dân huyện C cắm mốc, đo đạc xác định phần diện tích
800m
2
/1.417m
2
đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Lương Thị
H, ông Tô K tại ấp A, xã T, huyện C; Phần diện tích đất còn lại giao cho hộ bà
Nguyễn Thị N với mục đích sử dụng là đất nông nghiệp và cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho bà N theo quy định. Ngày 17/5/2019, Ủy ban nhân dân
huyện C ban hành Thông báo số 5886/TB-UBND về việc thực hiện Công văn số
1879/UBND-NCPC ngày 04/5/2018 của Ủy ban nhân dân Thành phố H về giải
quyết khiếu nại của đại diện các hàng thừa kế theo pháp luật của bà Nguyễn Thị
N (đã chết). Ngày 08/7/2019, Ủy ban nhân dân huyện C ban hành Thông báo số
7607/TB-UBND về việc yêu cầu các đại diện các hàng thừa kế theo pháp luật
của bà Nguyễn Thị N tháo dỡ nhà. Ngày 12/9/2019, Ủy ban nhân dân xã T tiến
hành thực hiện Công văn số 1879/UBND-NCPC ngày 04/5/2018 của Ủy ban
nhân dân Thành phố H về giải quyết khiêu nại đại diện các hàng thừa kế theo
pháp luật của bà Nguyễn Thị N (đã chết). Tại buổi làm việc đã tiến hành bàn
giao cho ông Tô Thành C diện tích 400m
2
thửa số 85, một phần thửa 86, tờ bản
đồ số 7 và bà Lương Thị H diện tích 400m
2
một phần thửa 86, tờ bản đồ số 7, bộ
địa chính xã T. Như vậy, có cơ sở xác định gia đình bà T đã biết được Quyết
định số 703/QĐ-UB-NC ngày 01/02/1999 của Ủy ban nhân dân Thành phố H từ
trước năm 2019.
Tại điểm a khoản 2 Điều 116 của Luật tố tụng hành chính năm 2015 quy
định về thời hiệu khởi kiện là 01 năm kể từ ngày người khởi kiện nhận được
hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính.
Đối chiếu qui định pháp luật với phân tích trên, vào thời điểm bà T khởi
kiện vụ án hành chính tại Tòa án thì thời hiệu khởi kiện cũng đã hết.
[4] Từ các phân tích trên, Tòa án cấp sơ thẩm Quyết định đình chỉ giải
quyết vụ án hành chính là có căn cứ và đúng quy định pháp luật. Tại cấp phúc
thẩm, bà T kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ nào mới chứng
minh nên Hội đồng phúc thẩm bác yêu cầu kháng cáo của bà T và giữ nguyên
4
Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính của Tòa án cấp sơ thẩm như đề
nghị của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là có cơ sở
chấp nhận.
[5] Án phí hành chính phúc thẩm: do kháng cáo không được chấp nhận nên
người kháng cáo là bà Phạm Thị T phải chịu, theo quy định của pháp luật án phí,
lệ phí Tòa án.
Căn cứ vào Điều 243 của Luật tố tụng hành chính,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Bác yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện là bà Phạm Thị T.
Giữ nguyên Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính số
300/2024/QĐST-HC ngày 19 tháng 7 năm 2024 của Tòa án nhân dân Thành phố
Hồ Chí Minh.
2. Án phí hành chính phúc thẩm: Bà Phạm Thị T phải chịu 300.000 (Ba
trăm nghìn) đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn)
đồng tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo biên lai thu số 0041141 ngày
09/9/2024 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Quyết định này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định./.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao (1);
- VKSND cấp cao tại TP.HCM (1);
- TAND TP.HCM (1);
- VKSND TP.HCM (1);
- Cục THADS TP.HCM (1);
- Các đương sự (2);
- Lưu HSVA (1), VP (5), 13b (QĐ-PPC);
TM. HỘI ĐỒNG PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN HỌP
(dã ký)
Hồ Thị Thanh Thúy
5
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm