Quyết định số 12/2025/QĐ-PT ngày 20/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Quyết định số 12/2025/QĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Quyết định số 12/2025/QĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Quyết định 12/2025/QĐ-PT
Tên Quyết định: | Quyết định số 12/2025/QĐ-PT ngày 20/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Dương |
Số hiệu: | 12/2025/QĐ-PT |
Loại văn bản: | Quyết định |
Ngày ban hành: | 20/03/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Theo hợp đồng vay tài sản ngày 06/02/2018, để bảm đảm cho khoản vay, bà O có thế chấp cho ông Nguyễn Đại D tài sản thuộc sở hữu của Công ty TNHH Đ và giao toàn bộ bản chính cho ông D giữ là 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 06/02/2013 cho Công ty TNHH Đ. Căn cứ vào đơn khởi kiện thì quan hệ pháp luật tranh chấp của vụ án là tranh chấp hợp đồng vay tài sản. Tuy nhiên, theo thông báo về việc thụ lý vụ án ngày 02/01/2025. Tòa án nhân dân thành phố B xác định quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản, kiện đòi tài sản và kiện đòi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” là không phù hợp. Do xác định quan hệ tranh chấp không đúng nên việc Tòa án nhân dân thành phố B nhận định rằng vụ án có nhiều yêu cầu khác nhau nên ban hành Quyết định tách vụ án số 01/2025/QĐST-DS theo đó tách vụ án thụ lý số 02/TB-TLVA ngày 02/01/2025 thành 02 vụ án. Trong trường hợp này, 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Công ty TNHH Đ mà ông D khởi kiện là tài sản bảo đảm thỏa thuận tại hợp đồng vay tiền ngày 06/02/2018 nên phải được thụ lý, xem xét đánh giá trong cùng vụ án. Do đó, Toà án cấp phúc thẩm hủy Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự số 04/2025/QĐST-DS ngày 08/01/2025 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bình Dương. |
Tóm tắt Quyết định
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

QUYẾT ĐỊNH
GIẢI QUYẾT VIỆC KHÁNG CÁO ĐỐI VỚI
QUYẾT ĐỊNH ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
Với Hội đồng phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên họp:
Các Thẩm phán:
Ông Nguyễn Trung Dũng
Ông Nguyễn Văn Tài
Bà Trần Thị Thanh Trúc
Thư ký phiên họp: Bà Nguyễn Thị Quốc Nhi – Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Bình Dương.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên họp:
Bà Trần Thị Ngọc Tuyền – Kiểm sát viên.
NHẬN THẤY:
Tại Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự số 04/2025/QĐST-DS
ngày 08/01/2025, Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bình Dương căn cứ quy
định tại điểm g và điểm h khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015,
quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 39/2025/TLDS-PT
ngày 17/01/2025 về việc: “Kiện đòi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”, giữa:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đại D, sinh năm 1965; địa chỉ thường trú: số
C, N, phường T, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị đơn: Bà Đặng Thị Kim O, sinh năm 1970; địa chỉ: Khu phố D,
phường M, thành phố B, tỉnh Bình Dương.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty TNHH Đ; địa chỉ: số B
lô C, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Tại đơn kháng cáo ngày 13/01/2025 của nguyên đơn ông Nguyễn Đại D,
kháng cáo yêu cầu hủy Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự số
04/2025/QĐST-DS ngày 08 tháng 01 năm 2025 của Tòa án nhân dân thành phố
B, tỉnh Bình Dương.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên họp
phúc thẩm phát biểu ý kiến:
- Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng chấp hành đúng quy định của
Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên họp xét quyết định.
- Về nội dung vụ án:
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TÌNH BÌNH DƯƠNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Số: 12/2025/QĐ-PT
Bình Dương, ngày 20 tháng 3 năm 2025
2
Hồ sơ thể hiện: Ngày 06/02/2018, nguyên đơn ông D và bị đơn bà O ký
hợp đồng vay tài sản, với nội dung “bà O vay của ông D số tiền 60 tỷ đồng, thời
hạn vay 02 tháng kể từ ngày 06/02/2018 và bà O đồng ý thế chấp 02 giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất do công ty Đ đang đứng tên”. Ngày 03/9/2019, ông D
và bà O tiếp tục ký hợp đồng mượn tiền, với nội dung “ông D đồng ý cho bà O
mượn số tiền 30 tỷ đồng, thời hạn 30 ngày”. Ngày 12/03/2020, bà O và ông D
tiếp tục lập biên bản viết tay ghi nhận bà O nợ ông D số tiền 68 tỷ đồng. Thực
hiện hợp đồng vay, hai bên đều thừa nhận ông D đã giao đủ tiền vay và bà O đã
giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do công ty Đ đang đứng tên cho ông D
cất giữ quản lý để đảm bảo khoản vay của bà O.
Như vậy, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho công ty Đ là tài sản
đảm bảo khoản vay của bà O và việc đảm bảo tài sản để vay tiền này được hai
bên thống nhất ghi vào nội dung của hợp đồng vay do hai bên ký ngày
06/02/2018, nên giấy chứng nhận này liên quan trực tiếp đến giao dịch vay tài
sản giữa nguyên đơn và bị đơn, do đó Tòa án phải giải quyết vụ án tranh chấp
hợp đồng vay và tranh chấp đòi giấy chứng nhận trong cùng một vụ án, nhằm
đảm bảo quyền lợi hợp pháp của đương sự theo quy định Điều 186 Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015. Tuy nhiên, Tòa sơ thẩm tách vụ án tranh chấp hợp đồng
vay và tranh chấp đòi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là tài sản đảm bảo cho
hợp đồng vay đó thành 02 vụ án độc lập và nhận định “nguyên đơn ông D không
phải là người đại diện theo pháp luật của công ty TNHH Đ, không phải thành
viên của công ty TNHH Đ và không có chứng cứ chứng minh bà O và công ty Đ
chiếm giữ trái pháp luật giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho công ty
Đ”, để đình chỉ giải quyết vụ án tranh chấp kiện đòi giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất là trái quy định Điều 42 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, dẫn đến
việc không giải quyết triệt để vụ án tranh chấp hợp đồng vay có tài sản đảm bảo
là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm tách vụ án
để đình chỉ giải quyết vụ án với lý do như phân tích trên là không phù hợp, chưa
xem xét hết tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích hợp pháp của nguyên đơn.
Ngoài ra, quyết định đình chỉ không đúng mẫu số 45-DS (ban hành theo
Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13/01/2017 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao) do phần hậu quả của việc đình chỉ không nêu. Cụ thể:
Tại quyết định đình chỉ số 04 nêu trên không thể hiện bất kỳ nội dung nào tuyên
đương sự được quyền khởi kiện lại vụ án hay là không được quyền khởi kiện lại
vụ án, đồng thời nêu rõ lý do được quyền hoặc không được khởi kiện lại vụ án
này. Như vậy, việc Tòa sơ thẩm không nêu đương sự có được quyền khởi kiện
lại vụ án hay không tại phần hậu quả của việc đình chỉ là trái quy định khoản 1
Điều 218 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Tại điều khoản này quy định “Khi có
quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, đương sự không có quyền khởi kiện
yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án dân sự đó, nếu việc khởi kiện vụ án sau
không có gì khác với vụ án trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có
tranh chấp, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 192, điểm c khoản 1 Điều
3
217 của Bộ luật này và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật”, phần
hậu quả của việc đình chỉ Tòa sơ thẩm chỉ ghi về phần án phí như sau “tiền tạm
ứng án phí nguyên đơn ông D đã nộp được xử lý khi Tòa án có thẩm quyền giải
quyết vụ án tranh chấp hợp đồng vay giữa các đương sự nguyên đơn ông D bị
đơn bà O”, theo nhận định của Tòa án sơ thẩm căn cứ điểm g khoản 1 Điều 217
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2017 để đình chỉ giải quyết vụ án, thì tiền tạm ứng
án phí mà đương sự đã nộp được trả lại cho họ theo khoản 3 Điều 218 Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015, nhưng Tòa sơ thẩm tuyên “sẽ được xử lý khi giải quyết
trong hợp đồng vay” như trên là trái khoản 3 Điều 218 Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015. Tại điều khoản này quy định “Tòa án ra quyết định đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự trong trường hợp khác quy định tại các điểm d, đ, e và g
khoản 1 Điều 217 của Bộ luật này thì tiền tạm ứng án phí mà đương sự đã nộp
được trả lại cho họ”.
Từ những phân tích trên, kháng cáo của nguyên đơn là có căn cứ.
Vì lẽ trên,
Căn cứ điểm c khoản 5 Điều 314 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, đề
nghị Hội đồng phúc thẩm: Chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông D. Hủy
Quyết định đình chỉ số 04/2025/QĐST-DS ngày 08/01/2025 của Tòa án nhân
dân thành phố B và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố B để
tiếp tục giải quyết vụ án.
XÉT THẤY:
[1] Theo đơn khởi kiện đề ngày 30/12/2024, ông Nguyễn Đại D khởi kiện
bà Đặng Thị Kim O, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Công ty TNHH
Đ và Công ty cổ phần T yêu cầu bà Đặng Thị Kim O phải thanh toán cho ông
Nguyễn Đại D số tiền vay là 30.000.000.000 đồng cùng lãi suất theo quy định
của hợp đồng cho mượn tiền số 03090-DD/KO ngày 03/9/2019; yêu cầu bà
Đặng Thị Kim O và Công ty TNHH Đ có nghĩa vụ liên đới thanh toán cho ông
D số tiền vay 60.000.000.000 đồng, đồng thời yêu cầu bà O cùng Công ty
TNHH Đ phải trả cho ông D 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
CT03728 và số CT03729 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày
06/02/2013 cho Công ty TNHH Đ theo hợp đồng vay tài sản ngày 06/02/2018;
yêu cầu bà Đặng Thị Kim O và Công ty cổ phần T phải thanh toán số tiền
68.000.000.000 đồng và lãi suất theo quy định của giấy vay tiền đề ngày
12/3/2020.
[2] Theo hợp đồng vay tài sản ngày 06/02/2018, để bảm đảm cho khoản
vay, bà O có thế chấp cho ông Nguyễn Đại D tài sản thuộc sở hữu của Công ty
TNHH Đ và giao toàn bộ bản chính cho ông D giữ là 02 Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số CT03728 và số CT03729 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B
cấp ngày 06/02/2013 cho Công ty TNHH Đ. Do đó 02 Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất là tài sản bảo đảm cho khoản vay theo hợp đồng vay tiền ngày
06/02/2018.
4
[3] Căn cứ vào đơn khởi kiện thì quan hệ pháp luật tranh chấp của vụ án
là tranh chấp hợp đồng vay tài sản. Tuy nhiên, theo thông báo về việc thụ lý vụ
án ngày 02/01/2025. Tòa án nhân dân thành phố B xác định quan hệ tranh chấp
là “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản, kiện đòi tài sản và kiện đòi giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất” là không phù hợp.
[4] Do xác định quan hệ tranh chấp không đúng nên việc Tòa án nhân dân
thành phố B, tỉnh Bình Dương nhận định cho rằng vụ án có nhiều yêu cầu khác
nhau nên ban hành Quyết định tách vụ án số 01/2025/QĐST-DS theo đó tách vụ
án thụ lý số 02/TB-TLVA ngày 02/01/2025 thành 02 vụ án, bao gồm vụ án dân
sự thụ lý số 02/2025/TLST-DS ngày 02/01/2025 về việc tranh chấp hợp đồng
vay tài sản, kiện đòi tài sản và vụ án dân sự thụ lý số 62/2025/TLST-DS ngày
07/01/2025 về việc kiện đòi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không phù
hợp theo quy định tại Điều 42 của Bộ luật Tố tụng dân sự, dẫn đến việc Tòa án
cấp sơ thẩm ban hành Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự đối với vụ án
dân sự thụ lý số 62/2025/TLST-DS ngày 07/01/2025 về việc kiện đòi giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất là không có căn cứ. Trong trường hợp này, 02
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CT03728 và số CT03729 do Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 06/02/2013 cho Công ty TNHH Đ mà
ông D khởi kiện là tài sản bảo đảm thỏa thuận tại hợp đồng vay tiền ngày
06/02/2018 nên phải được thụ lý, xem xét đánh giá trong cùng vụ án.
[9] Từ những phân tích trên, kháng cáo của nguyên đơn là có cơ sở chấp
nhận.
[10] Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên họp là phù hợp.
[11] Án phí dân sự phúc thẩm: Người kháng cáo không phải chịu.
Căn cứ Điều 314 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015,
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Đại D.
2. Hủy Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự số 04/2025/QĐST-DS
ngày 08 tháng 01 năm 2025 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bình Dương.
Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bình Dương
tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
3. Án phí dân sự phúc thẩm: Hoàn trả cho ông Nguyễn Đại D số tiền
300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí phúc thẩm theo Biên lai số
0009907 ngày 13/01/2025 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh
Bình Dương.
4. Quyết định này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định./.
5
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Chi cục THADS thành phố B;
- TAND thành phố B;
- Các đương sự (để thi hành);
- Tổ Hành chính tư pháp;
- Lưu: Hồ sơ, Tòa Dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN HỌP
Nguyễn Trung Dũng
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 17/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 17/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 24/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 18/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 15/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 12/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm