Quyết định số 115/2024/QĐPT-DS ngày 27/11/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội về y/c công nhận và cho thi hành án tại việt nam bản án, quyết định về dân sự

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Quyết định 115/2024/QĐPT-DS

Tên Quyết định: Quyết định số 115/2024/QĐPT-DS ngày 27/11/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội về y/c công nhận và cho thi hành án tại việt nam bản án, quyết định về dân sự
Quan hệ pháp luật: Y/c công nhận và cho thi hành án tại Việt Nam bản án, quyết định về dân sự...
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại Hà Nội
Số hiệu: 115/2024/QĐPT-DS
Loại văn bản: Quyết định
Ngày ban hành: 27/11/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Không chấp nhận kháng cáo của Công ty V; Giữ nguyên Quyết định xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài tại Việt Nam số 17/2023/QĐST-TTTM ngày 06, 18 và 25/12/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
Tóm tắt Quyết định

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI HÀ NỘI
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Số: 115/2024/QĐPT-VKDTM
Hà Nội, ngày 27 tháng 11 năm 2024
QUYẾT ĐỊNH
PHÚC THẨM GIẢI QUYẾT VIỆC DÂN SỰ
V/v yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết kinh doanh thương mại
của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
Thành phần giải quyết việc dân sự gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Đặng Thị Thơm;
Các Thẩm phán: Ông Điều Văn Hằng;
Ông Bùi Anh Thắng.
Thư phiên họp: Ông Phạm Minh Tùng, Thư Toà án nhân dân cấp
cao tại Hà Nội.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cp cao tại Nội tham gia phiên họp:
Bà Phan Diệu Nhân - Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 11 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội
mở phiên họp phúc thẩm công khai giải quyết việc dân sự thụ số
02/2024/TLPT-VKDTM ngày 05 tháng 02 năm 2024 về việc Yêu cầu ng nhận
và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam”;
Do Quyết định xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết trọng
tài nước ngoài tại Việt Nam số 17/2023/QĐST-TTTM ngày 06, 18 và 25/12/2023
của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
bị kháng cáo.
Theo Quyết định mở phiên họp phúc thẩm giải quyết việc kinh doanh
thương mại số 12582/2024/QĐPT-VKDTM ngày 06 tháng 11 năm 2024, gồm
những người tham gia tố tụng sau đây:
- Người được thi hành: Công ty V, địa chỉ: B, 3011, P1120, BC, Hà Lan.
Người đi din theo y quyn: Ông Xuân L, ông Trần Anh Đ, ông Trn
Anh T Nguyn Phương C; địa ch: Tng I Tòa nhà V9, s N HQV, phưng
, qun CG, thành ph Hà Ni; (Đu mt ti phiêna).
- Người phải thi hành: Công ty Cổ phần D (H), địa chỉ: Số M NHT, phường
TXT, quận TX, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Đỗ n M Tng Giám đốc; ( mặt tại
phiên tòa).
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đỗ Công D và bà Đặng Thị Hồng L; địa
2
chỉ liên hệ: Tòa B,n hA Chung cư I, NT, pờng TXT, qun TX, tnh phố Hà
Nội; ều vắng mt n bản hủy ủy quyền ngày 25/11/2024).
- Người kháng cáo: Công ty V.
NỘI DUNG VIỆC KINH DOANH THƯƠNG MẠI:
Theo đơn yêu cầu công nhận cho thi hành tại Việt Nam phán quyết trọng
tài nước ngoài, người được thi hành là Công ty V trình bày:
Công ty V (viết tắt V) đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Nội
công
nhận cho thi hành Phán quyết trọng tài s ICA A01/2018/03 ngày 05/9/2019
ban hành bởi Hội đồng trọng tài của Hiệp hội B (viết tắt Phán quyết trọng tài
ICA). Phán quyết trọng tài ICA đã tuyên buộc Công ty Cổ phần D (viết tắt H)
phải thanh toán cho V số tiền 6.025.132,98 USD bao gồm khon tiền chưa thanh
toán và lãi phát sinh.
V thoả thuận trọng tài: Các Hợp đồng giao kết giữa Người được thi hành
Người phải thi hành quy định: “Các điều khoản và điều kiện khác mà không
trái với các điều khoản và điều kiện nêu trên sẽ theo các Quy chế và Quy tắc của
Hiệp hội B hiệu lực vào ngày ký hợp đồng này. Theo đoạn 3 Quy chế s 201
của các Quy chế Quy tắc của Hiệp hội B được áp dụng, đối với Hp đồng được
lập theo các Quy chế và Quy tắc của Hiệp hội B hoặc chứa đựng các nội dung có
hiệu lực tương tự, điều khoản trọng tài sau đây s được áp dụng: “Mọi tranh chấp
liên quan đến Hợp đồng sẽ được giải quyết bng trọng i theo Quy chế của Hiệp
hội B”. Hợp đồng bao gồm các quy chế trong đó quy định thủ tục giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài của Hiệp hội.
Về việc thông báo thủ tục trọng tài: Quá trình thực hiện hợp đồng, đại diện
H dùng hòm thư điện tử nguyennha[email protected] b[email protected] để trao
đổi với V về việc thanh toán số tiền 50 tấn bông hàng hóa của Hợp đồng số
657027 các vấn đề khác như khoản tiền chưa thanh toán. Tại các thư điện tử
ngày 07/11/2013, ngày 11/11/2013, V đã nêu H cũng nhận thức được ý định
tiến hành khởi kiện trọng tài tại Hiệp hội B của V nhưng H không hề phản đối về
vấn đề thẩm quyền hay hiệu lực của các hợp đồng.
Ny 17/01/2018, V nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp với H từ các Hợp
đồng bằng trọng tài tại Hiệp hội B. ng ngày 17/01/2018 ngày 18/01/2018, V
đã yêu cu T ký trọng tài của Hiệp hội B (viết tắt là T trọng tài) rằng tất cả
c trao đổi thư từ về vụ việc trọng i số A01/2018/03 được gửi tới H qua địa chỉ
thư điện t buiminh@H.vn (n cạnh địa chỉ thư điện t
nguyennhan.H@gmail.com) cả qua bưu điện. Ny 18/01/2018, Thư trọng tài
đã thông o tới người phi thi nh H qua hai địa chỉ thư điện tử
nguyennhan.H@gmail.com buiminh@H.vn về đơn yêu cầu trọng tài của V u
trên. Ngày 23/01/2018, sau khi V thanh toán khoản phí trọng i đặt cọc, T trọng
tài đã gi thông o trọng tài tới H (i) qua đường u điện tới địa chM đưng NHT,
qun TX, Nội 71000, Vit Nam”, (ii) qua đưng fax tới s84 4 3858 5392, (iii)
qua hai địa chthư điện t nguyennhan.H@gmail.com buiminh@H.vn. Địa ch
u điện và fax nêu trên đều đúng với tng tin đã đăng ký của H theo i liu Báo
3
o lịch sử đăng doanh nghiệp của H được kết xuất từ sở dữ liệu quốc gia v
đăng ký doanh nghiệp thời điểm ngày 23/6/2022. Tại thông o, bên cạnh các vấn
đề khác, Thư ký trọng tài đã yêu cu H chđịnh Trọng tài vn trongng 14 ny
kể t ngày nhận được thông o. Ny 21/3/2018, qua bưu điện thư điện tử, Thư
trọng i thông o tới H về việc H đã không chỉ định Trọng i viên trong thời
gian cho pp; do đó, Chủ tịch Hiệp hội B đã chỉ định Trọng tài viên J thay cho H.
Ny 17/4/2018, V đệ trình Đơn khởi kiện chi tiết tới Hội đồng Trọng tài Thư
trọng i. ng ny, T trọng tài đã gửi tài liệu trên cho H qua hai địa ch thư
đin t nguyennhan.H@gmail.com và buiminh@H.vn, yêu cầu H phn hồi trong ng
14 ngày kể từ ngày nhận được thư này. Tuy nhiên, H không có bất kì phản hio.
Ny 14/5/2018, Ttrọng tài gửi tới c bên Tng o của Hội đồng trọngi
về việc tiếp tục tiến nh thủ tục giải quyết vụ tranh chấp trên sở một bên do phía
người phải thi nh H không bt kỳ phản hồi o về việc tham gia vào tố tụng
trọng i. Cụ thể, Thư trọng i đã thông o tới H qua c địa chthư điện tử
nguyennhan.H@gmail.com; buiminh@H.vn; gr@H.vn.
Ngày 30/5/2018, Thư ký trọng tài gửi tới các Bên yêu cầu cung cấp tài liệu
của Hội đồng trọng tài. Ngày 05/6/2018, V đã phản hồi cung cấp tài liệu theo
yêu cầu của Hội đồng trọng tài. Ngày 11/6/2018, Thư trọng tài đã thông báo
chuyển các tài liệu được V cung cp cho H qua các Thư điện tử. Ngày
23/7/2018, Thư ký trọng tài gửi tới các Bên yêu cầu cung cấp thông tin của Hội
đồng trọng tài. Ngày 03/8/2018, V đã phản hồi trả lời theo yêu cầu của Hội đồng
trọng tài. Ngày 06/8/2018, Thư ký trọng tài đã thông báo và chuyển tiếp phản hồi
của V cho H qua các Thư điện tử. Theo Quy chế số 307 của các Quy chế và Quy
tắc của Hiệp hội B được áp dụng, Phiên họp giải quyết vụ việc trực tiếp chỉ được
tiến hành theo yêu cầu của một hoặc các bên tham gia tranh chấp. không có
bên nào đtrình yêu cầu tổ chức Phiên họp giải quyết vụ việc trực tiếp tới Hội
đồng trọng tài nên Hội đồng trọng tài đã xem xét và giải quyết vụ tranh chấp dựa
trên sở các tài liệu được đệ trình. Lần lượt vào các ngày 31/01/2019, 01/5/2019
và 03/5/2019, Thư ký trọng tài thông báo tới các bên, trong đó thông báo cho
H qua các Thư điện tử, các thông báo của Hội đồng trọng tài vthời gian ban hành
phán quyết cùng các vấn đề hóa đơn hành chính khác. Ngày 09/5/2019, Hội đồng
trọng tài chính thức ban hành Phán quyết. ng ngày, Thư trọng tài đã gửi
Phán quyết tới các Bên qua thư điện tử, bưu điện thông báo tới các bên rằng
bất kỳ thông báo khiếu nại nào đối với Phán quyết cần được gửi tới Hiệp hội B
trong hoặc trước ngày 06/6/2019 theo Quy chế của Hiệp hội B. Như vậy, Phán
quyết thông báo trên đã được Thư trọng tài gửi tới H (i) qua địa chỉ thư điện
tử của H, và (ii) qua bưu điện tới địa chỉ trụ sở của H.
Người được thi hành cho rằng Phán quyết của Hội đồng trọng tài không nằm
trong các trường hợp không được công nhận và cho thi hành theo Điều V.2 Công
ước New York: Việc công nhận và thi nh phán quyết trọng tài còn có thể bị từ
chối nếu như cơ quan có thẩm quyn của nước, nơi việc công nhận và thi hành đó
được yêu cầu cho rằng: a) Đối tượng của vụ tranh chấp không thể giải quyết được
bằng trọng tài theo luật pháp của nước đó; hoặc b) Việc công nhận thi hành
phán quyết sẽ trái với chính sách công của nước đó”; và/hoặc khoản 2 Điều 459
4
Bộ luật Tố tụng dân sự: “Phán quyết của Trọng tài nước ngoài ng không được
công nhận, nếu Tòa án Việt Nam xét thấy a) Theo pháp luật Việt Nam, vụ tranh
chấp không được giải quyết theo th thức trọng tài; b) Việc công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng i nước ngoài ti với các ngun tắc
bản của pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tranh chấp được giải quyết bởi Phán quyết trong vụ việc này phát sinh từ
quá trình thực hiện Hp đồng mua bán bông giữa hai pháp nhân; trong đó, V
mt Công ty thương mại toàn cầu chuyên vcác mặt hàng nông sản; H một
pháp nhân Việt Nam thực hiện hoạt động sản xuất và buôn bán các sản phm dt
may. Tranh chấp này không thuộc thẩm quyền giải quyết riêng biệt của Tòa án
Việt Nam theo quy định tại Điều 470 Bộ luật Tố tụng dân sự. Do đó, vtranh
chấp này thỏa mãn điều kiện được giải quyết bằng phương thức trọng tài theo quy
định của pháp luật Việt Nam. Việc công nhận cho thi hành Phán quyết hoàn
toàn không trái bất kỳ nguyên tắc cơ bản, chính sách công nào ca pháp luật Việt
Nam. Theo quy định tại Điều 12 Hiến pháp năm 2013, Việt Nam nghĩa vụ tuân
thủ các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Do vậy, những nguyên tắc
bản của pháp luật Việt Nam cũng bao gồm việc nghiêm chỉnh thực hiện các
nghĩa vụ quốc tế của Việt Nam, bao gồm Công ước New York 1958, tôn trọng và
ủng hộ việc cho thi hành các phán quyết trọng tài nước ngoài.
Ngoài ra, Phán quyết cũng không thuộc bất kỳ trường hợp từ chối không
công nhận nào khác theo quy định tại Điều 459 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về thời hạn nộp Đơn yêu cầu: Đại diện theo uỷ quyền của Người được thi
hành cho rằng khoảng thời gian Tòa án nhân dân thành phố Nội thụ lý và giải
quyết Đơn yêu cầu thứ nhất từ ngày 18/4/2022 (ngày nộp đơn) đến ngày 26/4/2023
(ngày Người được thi hành nhận được Thông báo không thụ kháng cáo), không
được tính vào thời hạn 03 năm để nộp đơn yêu cầu theo quy định của Điều 451
Bộ luật T tụng dân sự do Hội đồng xét đơn (lần 1) triệu tập không hợp lệ.
Nời được thi hành cũng đề nghị xem xét không tính thời gian diễn ra đại
dịch Covid-19 vào thời hạn xét đơn để đảm bảo quyền lợi của Người được thi hành.
Người phải thi hành là H trình bày:
H thừa nhận các Hợp đồng mua bông của GG B.V như Phán quyết
trọng tài ICA đã giải quyết. Tuy nhiên, H khẳng định không biết cũng không
các Phụ lục số 01 ngày 29/11/2011 của Hợp đồng s657858 ngày 20/01/2011;
Hợp đồng số 659006 ngày 19/02/2011; Hợp đồng số 659247 ngày 25/02/2011
như V trình y. Mặt khác, các tài liệu này không chữ , dấu của H. vậy
các Hợp đồng và Phụ lục hợp đồng này không tồn tại và không có giá trị pháp lý.
Tương tự như các doanh nghiệp sợi Việt Nam trong điều kiện, hoàn cảnh khách
quan do chủ trương thắt chặt tín dụng của Chính phủ, các Ngân hàng Việt Nam
không cho vay, tchối mở phương thức thanh toán (L/C) giá bông mua vào
cao hơn giá sợi thành phẩm bán ra nên H không mở được L/C đúng thời hạn cho
các Hợp đồng này, chứ H không nợ tiền, nợ hàng của GG B.V.
Người phải thi hành đnghị Toà án không công nhận cho thi hành tại
5
Việt Nam Phán quyết trọng tài ICA số A01/2018/03 với các do sau:
- Các thông báo mà Trọng tài ICA gửi đến H không được gửi đồng thời
bằng các hình thức: Email, fax, chuyển phát nhanh đến trụ sở chính tùy từng
thời điểm, tùy loại văn bản được gửi đến một trong các hình thức nêu trên. Tuy
nhiên, H Người phải thi hành không được thông báo kịp thời hợp thức về
toàn bộ việc chỉ định Trọng tài viên, về thủ tục giải quyết vụ tranh chấp tại Trọng
tài ICA, nên không thể thực hiện được quyền tố tụng của mình, cụ thể như sau:
+ Một số thông báo mà V cho rằng Trọng tài ICA gửi cho H được gửi đến
các email: nguyennhan.H@gmail.com; [email protected]; [email protected] những địa
chỉ thư không được đăng chính thức trong đăng ký doanh nghiệp của H và không
trong hợp đồng mua bán giữa H và GG B.V. H cũng không sử dụng các địa ch
thư này để giao dịch, làm việc với GG B.V. H cũng chưa từng gửi thông báo nào
cho GG B.V v việc sử dụng các địa chỉ thư nêu trên trong quá trình làm việc giữa
hai bên. H không biết đây là địa chỉ email của nhân, tổ chức nào. Mặt khác, nội
dung thư trao đổi ngày 07/11/2013 trong Phụ lục 4 đính kèm Bản tự khai ngày
18/7/2022 của V gửi Tòa án nhân dân thành phố Nội nội dung người sử
dụng email nguyennhan.H@gmail.com thuộc Phòng Xuất nhập khẩu. Tuy nhiên,
H không Phòng Xuất nhập khẩu trong cấu t chức của Công ty. Điều này
thể hiện rất tại Điều lệ Tổ chức và Hoạt động của Công ty Trách nhiệm hữu
hạn Nhà nước một thành viên D được phê chuẩn tại Quyết định số 134/2005/QĐ-
UB ngày 31/8/2005 của UBND thành phố HN.
+ V cho rằng Thông báo Trọng tài ICA gửi đến số fax H ngày 23/01/2018:
+84 4 38585392 đều khiến H không được thông báo kịp thời hợp thức bởi H
không sử dụng số fax này từ thời điểm tháng 01/2018 do khu đất tại M NHT, quận
TX, thành phố Nội bị thu hồi từ ngày 11/6/2014 theo Quyết định số 3123/QĐ-
UBND của UBND thành phố HN giao cho Công ty Cổ phần HB1 làm dự án nhà
ở. Ngày 12/3/2015, UBND thành phố HN thanh Hợp đồng thuê đất tại M NHT,
quận TX, thành phố Nội tại Văn bản Thanh Hợp đồng thuê đất số 128
TL/HĐTĐ.
+ Thông báo (ngày 23/01/2018, ngày 21/3/2018, ngày 09/5/2018) V cho
rằng Trọng tài ICA gửi cho H đến địa chỉ M NHT, quận TX, thành phố Hà Nội
Tầng C, Tnhà Văn phòng I, số M NHT, quận TX, thành phố Hà Nội thì H cũng
không nhận đượctrong Sổ công văn đến của H không thư từ, tài liệu nào từ
GA B.V hay Trọng tài ICA (Có Hồ sơ thừa phát lại đính kèm). Do bị thu hồi đất,
di dời trsở nên từ ngày 20/4/2015, địa chỉ làm việc kết hợp với liên lạc nhận thông
báo thuế cùng các tài liệu liên quan của H được chuyển đến Tầng K, Tòa nhà CB,
số P NHT, phường TXT, quận TX, thành phố Nội. H đã đăng địa chỉ trên tại
Phòng Đăng kinh doanh - Sở Kế hoạch Đầu Hà Nội đã được chấp thuận,
cập nhật thông tin địa ch trên hệ thống (Thông o s 171/TB-D19/5 ngày
20/4/2015 của Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên D gửi Phòng Đăng
kinh doanh - Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội và Thông báo s 2288/TB-ĐKKD-3
ngày 25/5/2015 của Phòng Đăng ký kinh doanh số 3 đính kèm).
Do đó, người đại diện theo pháp luật của H Người phải thi hành không
6
được thông báo kịp thời và hợp thức việc chỉ định Trọng tài viên, về thủ tục giải
quyết vụ tranh chấp, về thời gian chống án tại Trọng tài nước ngoài ICA theo trình
tự quy định của ICA năm 2010, năm 2011. Như vậy là không phù hợp với điểm c
khoản 1 Điều 459 Bộ luật Tố tụng dân sự: “Cơ quan, tổ chức, nhân phải thi
hành không được thông báo kịp thời và hợp thức về việc chỉ định Trọng tài viên,
v th tục giải quyết vụ tranh chấp tại Trọng tài nước ngoài hoặc vì nguyên nhân
chính đáng khác mà không thể thực hiện được quyền tố tụng của mình”Điều
5 Công ước New York ngày 10/6/1958 về công nhận thi hành các quyết định
trọng tài nước ngoài quy định: “Việc công nhận thi hành quyết định thể bị
từ chi, theo yêu cầu của Bên phải thi hành, chỉ khi nào bên đó chuyển tới
quan thẩm quyền nơi việc công nhận thi hành được yêu cầu, bằng chứng
rng: Nếu Bên phải thi hành quyết định không được thông báo thích đáng về việc
chỉ định trọng tài viên hay v t tụng trọng tài hoặc do một nguyên nhân gì khác
không th trình bày vụ việc của mình”.
- Phán quyết của Trọng tài ICA được tuyên về một vụ tranh chp không
được các bên yêu cầu giải quyết và vụ tranh chấp không được giải quyết theo thể
thức trọng tài:
+ Trong tất cả các Hợp đồng mua bông giữa H GG B.V đều điều
khoản quy định: “Các điều kiện khác: Tất cả các điều khoản điều kiện khác
không mâu thuẫn với những điều khoản trên theo luật và điều khoản của Hiệp hội
B, hiệu lực vào ngày hợp đồng này”. Theo quy định tại khoản 5, khoản 6
Quy chế 300 Hiệp hội B: 5. Nếu c bên đồng ý thực hiện trọng tài theo các quy
định này, thì theo đoạn (6) dưới đây, họ không được sử dụng bất kỳ Tòa án nào
nữa, trừ khi họ không có khả năng thực hiện những điều được yêu cầu, hoặc Luật
cho phép, trong các trường hợp đó, họ phải đệ đơn lên các Tòa án của Anh hoặc
xứ Wales; 6. Một bên thể đệ đơn lên một Tòa án bất kỳ đâu để nhờ sự bảo
đảm sự an toàn cho khiếu nại của họ trong khi vụ trọng tài hoặc chống án đang
được thực hiện”.
+ Tại khoản 2 Quy chế 300 Hiệp hội B quy định: “Trong tố tụng Trọng tài,
khi gửi yêu cầu cho Hiệp hội giải quyết bằng Trọng tài, Nguyên đơn bắt buộc phải
cung cấp Bản sao điều khoản Trọng tài bằng văn bản cùng với bản sao tài liệu
Hp đồng trong đó bao gồm điều khoản trọng tài hoặc theo đó phát sinh thủ tục
tố tụng trọng tài. Theo luật điều khoản của Hiệp hội B thì việc giải quyết
tranh chp th thông qua Tòa án hoặc Trọng tài do các bên thỏa thuận lựa chọn.
Tuy nhiên, trong tất cả các Hp đồng mua bán bông được ký giữa H và GG B.V
chỉ quy định chung áp dụng luật điều khoản của Hiệp hội B không
điều khoản về trọng tài. Các bên không thỏa thuận khi tranh chấp thì giải quyết
bằng Trọng tài của Hiệp hội B.
Với những do trên, Phán quyết trọng tài không phù hợp quy định tại điểm
d khoản 1 Điều 459 Bộ luật Tố tụng dân sự về trường hợp không công nhận Phán
quyết của Trng tài nước ngoài khi: “Phán quyết của Trọng tài nước ngoài được
tuyên về một vụ tranh chấp không được các bên yêu cầu giải quyết”; điểm a khoản
2 Điều 459 B luật Tố tụng dân sự quy định về: “Phán quyết của Trọng tài nước
7
ngoài cũng không được công nhận, nếu Tòa án Việt Nam xét thấy: a) Theo pháp
luật Việt Nam, vụ tranh chấp không được giải quyết theo thể thức trọng tài”; Điều
2 Công ước New York 1958 quy định: “Mỗi Quốc gia thành viên sẽ công nhận
một thỏa thuận bằng văn bản theo đó các bên cam kết đưa ra trọng tài xét xử mọi
tranh chấp đã hoặc thể phát sinh giữa các bên từ một quan hệ pháp xác
định, quan hệ Hp đồng hay không, liên quan đến một đối tượng khả
năng giải quyết được bằng trọng tài. Thuật ngữ “thoả thuận bằng văn bản” bao
gồm điều khoản trọng tài trong một Hp đồng hoặc một thoả thuận trọng tài được
các bên kết hoặc được ghi trong thư tín trao đi”; khoản b Điều 4 Công ước
New York 1958 quy định: “Để đạt được việc công nhận thi hành một quyết
định trọng tài như nói điều trên, bên yêu cầu công nhận thi hành, khi nộp
đơn yêu cầu phải cung cấp: b. Thỏa thuận gốc theo Điều 2 hoặc bản sao thỏa
thuận đó được chứng nhận hợp lệ”; Điều 5 Công ước New York 1958 quy định:
“Việc công nhận thi hành quyết định thể bị từ chối, theo yêu cầu của Bên
phải thi hành, chỉ khi nào bên đó chuyển tới cơ quan thẩm quyền nơi việc công
nhận thi hành được yêu cầu, bằng chứng rằng: Đối tượng của vụ tranh chp
không th giải quyết được bằng Trọng tài theo luật pháp ca nước đó”.
Người phải thi hành cũng đề nghị Hội đồng không thụ lý xem xét Đơn yêu
cầu với lý do việc nộp đơn yêu cầu lần 2 là đã hết thời hiệu theo quy định tại Điu
451 Bộ luật Tố tụng dân sự và không tính thời hạn diễn ra đại dịch Covid-19 vào
thời hạn xét đơn.
Tại Quyết định xét đơn yêu cầu công nhận cho thi hành phán quyết trọng
tài nước ngoài tại Việt Nam số 17/2023/QĐST-TTTM ngày 06, 18 25/12/2023,
Tòa án nhân dân thành phố Nội đã áp dụng: Điều 2, Điều 4 Điều 5 Công
ước New York 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước
ngoài; Điều 31, Điều 37, Điều 38, Điều 96, Điều 184, Điều 218, Điu 361, Điều
364, Điều 423, Điều 424, Điều 425, Điều 426, Điều 452, Điều 453, Điều 458,
Điều 455, Điều 459 Điều 461 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; Điều 150, Điều
151, Điều 153 Điều 156 Bộ luật Dân sự năm 2015; Khoản 3 Điều 4, khoản 1
Điều 5, điểm a khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại; Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:
Không công nhận cho thi hành tại Việt Nam Phán quyết trọng tài số
A01/2018/03 của Trọng tài Hiệp hội B giữa GA B.V (nay là V B.V, địa chỉ: B,
3011, P1120, BC, Hà Lan) và Công ty Cổ phần D theo Đơn yêu cầu nộp lại lần 2
ngày 26/4/2023.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về lệ phí và thông báo quyền
kháng cáo cho các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 08/01/2024, Người được thi hành V kháng cáo quyết định số
17/2023/QĐST-TTTM ngày 06, 18 25/12/2023 của Tòa án nhân dân thành phố
Hà Nội, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ Quyết định sơ thẩm.
Tại phiên họp phúc thẩm:
8
Người được thi hành giữ nguyên quan điểm đã trình bày tại các văn bản đã
nộp cho Tòa án đề nghị công nhận cho thi hành phán quyết trọng tài số
A01/2018/03 ngày 09/5/2019 của Trọng tài Hiệp hội B.
Người phải thi hành giữ nguyên quan điểm đã trình bày tại các văn bản đã
nộp cho Tòa án và đề nghị không công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài
số A01/2018/03 ngày 09/5/2019 của Trọng tài Hiệp hội B.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Nội tham gia phiên họp
nhận định: Quy chế 302 quy đnh khi gi yêu cầu, nguyên đơn phi gi tài liu
kèm theo tha thun trng tài. H là mt trong các bên thc hiện 08 Hợp đồng mua
bán bông vi V không có tha thun nào v trng tài. Các bên không cung cp
đưc tài liu v tha thun trng tài nào khác. Việc đưa ra giải quyết tranh chp
khi chưa có tha thun trng tài là vi phạm quy định pháp lut.
Th tc trng tài: Theo Quy chế 316 của Hiệp hội B yêu cầu rằng các thông
báo, phán quyết trọng tài hoặc tài liệu phải được gửi đến trụ sở kinh doanh chính
của bên nhận phải bằng chứng hợp lệ về việc đã được thông báo hoặc đã
được giao nhận. Như vậy, việc tống đạt hợp lệ không chỉ gửi thông báo qua các
phương thức như email, fax hay bưu điện cần chứng cứ ràng để chứng
minh bên nhận đã nhận được thông báo đó.
Đi din V cho rng Hi đồng trng tài tng đt hp l đã gửi Phán quyết
trọng i đến H qua nhiều phương thức như địa chmail: nguyennhan.H@gmail.com,
buiminh@H.vn, gr@H.vn; số fax đã được đăng doanh nghiệp: +84 4 3858 5392
u chính quc tế đến địa chsố M đường NHT, quận TX, thành phố Hà Nội,
nhưng không chứng minh được H đã nhận được thông báo. H cho rng không nhn
đưc văn bản tố tng trng tài đã thay đổi địa ch số fax, không địa chemail
o như V đã gửi n không thc hin đưc. vậy, theo pháp luật quy chế Hiệp
hội B, việc tống đạt không hợp l. Hi đồng trng tài Hip hi B đã vi phm quy tc
trng tài quc tế, không phù hợp quy định pháp lut. Đ ngh Hội đồng t xử gi
nguyên Quyết định sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ việc kinh doanh
thương mại được thẩm tra tại phiên họp; ý kiến của các đương sự đại diện Viện
kiểm sát tại phiên họp, Hội đồng phúc thẩm nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Theo Bản Trích lục từ Sổ đăng ký kinh doanh của Phòng Thương mại
HL do V xuất trình thì V có địa chỉ liên lạc tại B, 3011, người đại diện theo pháp
luật là M1, PM M2, DW - chức danh: Giám đốc; Loại hình kinh doanh của V
BV (dịch tiếng Lan là Công ty TNHH) và tên thương mại gm: V B.V, GG,
VA, GA. Do vậy GG, VA, GA B.V V B.V đều là một doanh nghiệp. Do đó, V
quyền yêu cầu công nhận cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài tại
Việt Nam theo quy định tại Điều 452 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.2] Do Người phải thi hành là H có trụ sở chính tại Hà Nội, Việt Nam, vì
9
vậy, Tòa án nhân dân thành phố Nội thụ và giải quyết việc kinh doanh
thương mại yêu cầu công nhận cho thi hành tại Việt Nam phán quyết kinh
doanh, thương mại của Trọng tài nước ngoài đúng thẩm quyền theo quy định
tại khoản 5 Điều 31, điểm b khoản 1 Điều 37, điểm e khoản 2 Điều 39 Bộ luật T
tụng dân sự.
[1.3] Tòa án cấp sơ thẩm không xét xử lại vụ tranh chấp đã được Trọng tài
nước ngoài giải quyết mà chỉ xem xét đến các điều kiện để công nhận hoặc không
công nhận việc cho thi hành tại Việt Nam đối với phán quyết của Trọng tài ICA
là đúng quy định tại khoản 4 Điều 458 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.4] Người được thi hành V cho rằng khoảng thời gian từ ngày
18/4/2022 (ngày nộp đơn lần 1) đến ngày 26/4/2023 không được tính vào thời hạn
xét đơn yêu cầu do Hội đồng xét đơn lần 1 triệu tập không hợp lệ là không có căn
cứ được chấp nhận bởi Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án ngày 26/4/2023 của
Tòa án nhân dân thành phố Nội đã hiệu lực pháp luật không thuộc trường
hợp được kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm theo quy định tại Điều
461 Bộ luật Tố tụng dân sự. Do đó, Hội đồng xét đơn lần 2 không có thẩm quyền
xem xét lại việc triệu tập của phiên xét đơn lần 1 là hợp lệ hay không hợp lệ vì sẽ
dẫn tới việc xem xét lại hiệu lực của quyết định tố tụng đã có hiệu lực pháp luật,
do đó, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận việc V yêu cầu không tính thời hạn
này vào thời hạn xét đơn yêu cu phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 451
Bộ luật Tố tụng dân sự.
Đối với đề nghị của Người được thi hành về việc không tính thời gian diễn
ra đại dịch Covid-19 vào thời hạn xét đơn yêu cầu: Từ đầu năm 2020, dịch bệnh
Covid-19 xảy ra lây lan nhanh chóng, mạnh mẽ trên thế giới, số lượng người
mắc tử vong dịch bệnh Covid-19 tăng nhanh khó kiểm soát. Tại Việt
Nam, ngày 23/01/2020 ghi nhận trường hợp đầu tiên mắc Covid-19, kinh tế,
hội bị tác động nghiêm trọng bởi đại dịch, do đó, các hoạt động kiểm soát đã diễn
ra, trong đó hạn chế tự do di chuyển, thắt chặt biên giới, thu hồi giấy phép hàng
không và hạn chế thị thực. Ngày 23/01/2020, Thủ tướng Chính phủ có Công điện
số 121/CĐ-TTg nhằm chủ động kiểm soát, ngăn chặn dịch bệnh lây lan vào Việt
Nam. Tại Chỉ thị số 05/CT-TTG ngày 28/01/2020, Thủ tướng Chính phủ đã yêu
cầu B y tế có kịch bản ứng phó với từng tình huống dịch trước ngày 30/01/2020,
yêu cầu các cơ quan, ban ngành của Việt Nam chủ động thực hiện các biện pháp
phòng chống dịch Covid-19 nhằm bảo vệ sức khỏe, tính mạng cho nhân dân, hạn
chế thấp nhất tử vong do dịch bệnh gây ra. Ngày 31/01/2020, WHO chính thức
tuyên bố dịch bệnh Covid-19 tình trạng y tế khẩn cấp toàn cầu. Khoảng thời
gian từ ngày 22/7/2021 đến ngày 22/9/2021 toàn bộ thành phố Nội bị phong
tỏa, thực hiện cách ly toàn hội. Các quan, công sở, doanh nghiệp đều phải
đóng cửa, không hoạt động, người dân không được ra khỏi nhà khi không được
sự cho phép của người có thẩm quyền, thủ tục xuất nhập cảnh bị hạn chế. vậy,
sự cản trở nhất định đến việc thực hiện các quyền của các chủ thể trong
ngoài lãnh thổ Việt Nam liên quan đến hoạt động tố tụng. Do đó, Người được thi
hành yêu cầu không tính thời gian diễn ra đại dịch Covid-19 (xấp xỉ 18 tháng) vào
tổng thời gian của thời hạn 03 năm là phù hợp quy định của khoản 1 Điều 156 Bộ
10
luật Dân sự năm 2015, sở được chấp nhận. Tòa án cấp thẩm xác định
Đơn đề nghị công nhận cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài tại Việt
Nam nộp lần 2 của Người được thi hành còn trong thời hạn phù hợp quy định
tại Điều 451 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.5] Về tính hợp pháp của các tài liệu, chứng cứ:
Kèm theo Đơn yêu cầu công nhận cho thi hành phán quyết Trọng tài
nước ngoài tại Việt Nam, V đã nộp cho Tòa án Phán quyết trọng tài, các Hợp đồng
phụ lục Hợp đồng, Quy tắc và Quy chế của Hiệp hội B,... đều đã được dịch
sang Tiếng Việt, công chứng, hợp thức hoá lãnh sự, đáp ứng quy định của Điều
4 Công ước New York 1958 Điều 453 Bộ luật Tố tụng dân sự. H không ý
kiến phản đối cũng như cung cấp tài liệu nào khác để cho thấy Bản Quy tắc
Quy chế này không phải là tài liệu hợp pháp. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ
vào Bản Quy chế Quy tắc này đ xét Đơn yêu cầu của V phù hợp quy định
pháp luật. Ngoài ra, đối với các tài liệu, chứng cứ khác chứng minh luận điểm của
mình, cả V H đều cung cấp các tài liệu tiếng nước ngoài đã được công chứng,
dịch thuật nên đều hợp pháp.
[1.6] Sau khi Người được thi hành nộp đơn yêu cầu công nhận và cho thi
hành phán quyết Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam lần 1 bị đình chỉ do Người
được thi hành triệu tập hợp lệ lần 2 mà vẫn vắng mặt, Tòa án nhân dân thành phố
Nội tiếp tục thụ Đơn yêu cầu do Người được thi hành nộp lại lần 2 phù
hợp quy định tại Điều 218, Điều 363, Điều 364, Điều 365 và Điều 455 Bộ luật T
tụng Dân sự. Do vậy, Tòa án cấp thẩm không chấp nhận ý kiến của Người phải
thi hành đề nghị Toà án không thụ lý, đình chỉ và trả lại đơn cùng hồ sơ yêu cầu
do không thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 457 Bộ luật Tố tụng dân sự
là có căn cứ, phù hợp quy định pháp luật.
[2] Vnội dung:
[2.1] Về Phán quyết trọng tài s ICA A01/2018/03 ngày 05/9/2019 ban
hành bởi Hội đồng trọng tài của Hiệp hội B:
Pn quyết trọng tài số ICA A01/2018/03 ngày 05/9/2019 của Hi đồng trọng
i của Hiệp hội B được ban hành tại LP, ơng quốc Anh - thành viên của Công
ước New York 1958. vậy, n cứ Điều 1 ng ước New York 1958 điểm a
khoản 1 Điều 424 Bộ luật Tố tụng n sự, Phán quyết trọng i ICA đối ợng
được xem t ng nhận cho thi hành tại Vit Nam.
Phán quyết trọng tài ICA đã được xác thực chữ và đóng dấu bởi Trung
tâm trọng tài Hiệp hội B theo Quy tắc số 308 Bản Quy chế và Quy tắc ICA, không
bị Người phải thi hành kháng cáo trong thời hạn 28 ngày theo quy định của mục
1 Quy tc s 313 Bản Quy chế và Quy tắc ICA, nên đã có hiệu lực theo quy định
của Bản Quy chế này và Luật trọng tài 1996 của Anh. Như vậy, Phán quyết trọng
tài ICA được xác định là phán quyết cuối cùng của Hội đồng trọng tài giải quyết
toàn bộ nội dung vụ tranh chấp, chấm dứt tố tụng trọng tài hiệu lực thi hành,
đáp ứng điều kiện để được Toà án xem xétng nhận tại Việt Nam theo quy định
tại khoản 2 Điều 424 Bộ luật Tố tụng dân sự.
11
[2.2] Xét tính hợp pháp về tố tụng trọng tài trước khi ban hành Phán quyết
trọng tài, Hội đồng phúc thẩm thấy:
[2.2.1] Đối với phản đối của Người phải thi hành (H) về việc các bên không
thoả thuận trọng tài, thuộc trường hợp không công nhận phán quyết trọng tài
theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 459 Bộ luật Tố tụng dân sự:
Các Hợp đồng đã được kết bởi đại diện theo pháp luật của các bên. Trong
các Hợp đồng đã giao kết bởi người đại diện hợp pháp của các bên quy định:
“Các điều khoản điều kiện khác mà không trái với các điều khoản điều kiện
nêu trên sẽ theo các Quy chế và Quy tắc của Hiệp hội B hiệu lực vào ngày
Hợp đồng này”. Thời điểm các bên xác lập giao dịch, Bản Quy tắc Quy chế
năm 2010 năm 2011 của Hiệp hội B được áp dụng (viết tắt Bản Quy chế
ICA). Theo quy định tại Quy tắc số 201 Bản Quy chế ICA t: Tranh chấp liên
quan đến Hợp đồng sẽ được giải quyết bằng trọng tài theo Quy chế của Hiệp hội
B. Hợp đng bao gm các Quy chế trong đóQuy chế thủ tục giải quyết tranh
chấp của Hiệp hội...”. Theo quy định tại mục 2 Quy tắc s 302 của Bản Quy chế
ICA thì: “Khi gửi yêu cầu, nguyên đơn cũng sẽ gửi bản sao điều khoản trọng tài
bằng văn bản cùng với bản sao tài liệu hợp đồng trong đó bao gồm điều khoản
trọng tài hoặc theo đó phát sinh thủ tục trọng tài”.
Như vậy, theo quy định này của Bản Quy chế ICA mặc giữa các bên
không một thoả thuận riêng bằng văn bản v việc giải quyết tranh chp bng
Trọng tài cũng như không có điều khoản trọng tài riêng biệt trong các Hợp đng
đã kết, nhưng khi các bên đã thoả thuận chọn Quy tc Quy chế của Hiệp hội
B mà theo quy định của Quy tắc và Quy chế của Hiệp hội B việc giải quyết tranh
chấp được thực hiện bởi Trọng tài, thì mặc nhiên các bên đã chấp nhận điều khoản
giải quyết tranh chp bằng Trọng tài như đã nêu trên với tính chất một điều
khoản định sẵn kèm theo Hợp đồng, làm phát sinh thủ tục trọng tài, phù hợp Bản
Quy tắc ICA, Điều 2 Công ước New York 1958 và Thông lệ thương mại quốc tế.
Do vậy, cấp thẩm không chấp nhận phản đối của H về việc không tồn
tại thoả thuận trọng tài là có căn cứ, phù hợp quy định pháp luật.
[2.2.2] Xét phản đối của Người phải thi hành về việc không được thông báo
kịp thời hợp thức về việc chỉ định Trọng tài viên, về thủ tục giải quyết vụ tranh
chấp tại Trọng tài nước ngoài, thuộc trường hợp không công nhận phán quyết
trọng tài theo quy định của Điều 5 Công ước New York 1958 và điểm c khoản 1
Điều 459 Bộ luật Tố tụng dân sự:
- V thủ tục thông báo liên quan đến việc chỉ định trọng tài viên: Theo quy
định của Quy tắc số 303 Bản Quy chế và Quy tắc ICA thì: “Nếu bị đơn không chỉ
định được trọng tài viên trong thời hạn 14 ngày, Hiệp hội sẽ chỉ định trọng tài
viên thông báo tên của trọng tài viên đã được chỉ định cho các bên; Theo
email của V gửi Hiệp hội B ngày 18/01/2018 thể hiện: Chúng tôi xin yêu cầu Hiệp
hội tất cả các thư từ trao đổi liên quan đến việc phân xử trọng tài vụ A01/2018/03
giữa nguyên đơn và bị đơn được gửi ng đến địa chỉ thư điện tử buiminh@H.vn
cũng như được gửi theo từng thư tín bảo đảm”.
12
Theo quy định tại mục 3 Quy tắc số 302 Bản Quy chế và Quy tắc ICA thì:
“Khi gửi yêu cầu, nguyên đơn cũng sẽ gửi tên, địa chỉ, bao gồm thư điện tử, số
điện thoại số fax của nguyên đơn”. Theo quy định của mục 1 Quy tắc số 316
Bản Quy chế và Quy tắc ICA thì: “Mọi thông báo, tài liệu và các hình thức thông
tin liên lạc khác phải được gửi bằng cách gửi đến địa chỉ trụ sở kinh doanh chính
hoặc văn phòng đăng được thông báo gần nhất của một bên gửi bằng đường
bưu điện, bưu phí trả trước hoặc các dịch vụ chuyển phát nhanh uy tín quốc tế
khác”. Mục 3 Quy tắc số 316 Bản Quy chế Quy tắc ICA quy định: “Các
thông báo, tài liệu và các hình thức thông tin liên lạc khác cũng thể được gửi
bằng fax, telex hoặc thư điện tử....”.
N vậy, theo 02 điều khoản y của Bản Quy tắc và Quy chế ICA thì việc
gửi các thông báo qua thư điện tử không thay thế cho việc gửi bằng thư n. Mặt khác,
i liệu Nời được thi nh cung cấp cho thấy Hiệp hội trọng i cũng không
gửi thông o chỉ định trọngi vn thay cho H theo đúng địa chỉ t điện tử mà V
yêu cầu tại email ngày 18/01/2018 buiminh@H.vn mà lại gửi vào thư điện tử
nguyennhan.H@gmail.com. c i liệu Người được thi hành cung cp cho thấy gia
H và V đã dừng liên lạc với nhau qua các thư điện t buiminh@H.vn;
nguyennhan@H.vn; gr@H.vn liên tục trong suốt thời gian từ cuối năm 2013 đến khi
V khởi kiện ra trọng i (năm 2018), nên việc nguyên đơn yêu cầu Hiệp hội phải
gửi tất cả thư từ trao đổi qua cả phương thức thư điện tử và thư tín cho bị đơn
hợp Hiệp hội cần trách nhiệm gửi các tài liệu này bằng cả hai phương
thức đúng theo địa chỉ và phương thức mà nguyên đơn cung cấp, nhằm đảm bảo
quyền lợi cho các bên đương sự như chính tinh thần của các quy định tại Quy tắc
s 302, Quy tắc 316 và tuyên bố của Bản Quy chế và Quy tắc ICA tại Quy tắc số
301: “Các bên sẽ được đối xử công bằng và mỗi bên có quyền trình bày và có cơ
hội như nhau để trình bày quan điểm của mình”. Do vậy, Tòa án cấp thẩm cho
rằng việc Hiệp hội trọng tài gửi thông báo về chỉ định trọng tài viên thông qua thư
điện tử không đúng địa chỉ thư điện tử V cung cấp và không thực hiện bằng hình
thức thư tín theo yêu cầu của Người được thi hành không phù hợp về tính hp
thức của việc gửi thông báo theo các Quy tắc 302, Quy tắc 316 Bản Quy chế
Quy tắc ICA và yêu cầu ca chính Người được thi hành căn cứ, phù hợp quy
định pháp luật.
- Vthông báo các thủ tục giải quyết vtranh chấp tại trọng tài: Tại Bản
nêu ý kiến đề ngày 14/12/2023 của đại diện V ng như xác nhận của đại diện V
tại phiên họp xét đơn thừa nhận không phải tất cả thông báo đều được gửi cho H
bằng cả phương thức thư điện tử và thư tín theo như yêu cầu của V tại email ngày
18/01/2018, là cũng không phù hợp về tính hợp thức của việc gửi thông báo theo
các Quy tắc 302, Quy tắc 316 Bản Quy chếQuy tắc ICA và yêu cầu của Người
được thi hành.
Mặt khác, tại Thông báo số 172/TB-D19/5 ngày 26/5/2015 của H gửi Công
ty Trách nhiệm hữu hạn BDV (là Công ty môi giới giữa V H) thể hiện: do
UBND thành phố HN thu hồi đất tại số M NHT, phường TXT, quận TX, thành
phố Nội theo Quyết định s 3123/QĐ-UBND ngày 11/6/2014 của UBND
thành phố HNn H phải chuyển trụ sở làm việc sang Tầng K, Tòa nhà CB, số P
13
NHT, phường TXT, quận TX, thành phố Nội từ năm 2015, do đó việc thông
báo cho H bằng phương thức thư tín ca Hiệp hội B đến địa chỉ: M đường NHT,
Quận TX, Nội 71000, Việt Nam” địa chỉ của H theo Giấy chứng nhận
đăng doanh nghiệp lần đầu ngày 12/9/2005, đăng thay đổi lần 2 ngày
25/12/2013 nên không hợp lệ, H không biết và không thể biết về thủ tục tố tụng
trọng tài của Hiệp hội B thông báo bằng phương thức thư tín.
ng tại Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thay đổi lần 2 ngày
25/12/2013 th hiện, email chính thức của H là hatex_co@hn.vnn.vn, fax là (84 4)
3858 5392. Nvậy, với việc H buộc phải thay đổi trụ sthì sđiện thoại cũng như
số fax của H bị thay đổi, thể hiện tại Giấy chng nhận đăng ký doanh nghiệp thay
đổi lần 4 ngày 13/10/2017, H không còn sử dụng fax thay đổi số điện thoại sang
(84 24) 6253 4827. Do đó, đủ sở khẳng định H không nhn được thông o
của Hiệp hội ng qua nh thức fax.
Đi vi phương thức tng báo ca Hiệp hội B bằng hình thức t đin tử, các
địa chỉ thư đin tử đưc thông o là buiminh@H.vn; nguyennhan@H.vn; gr@H.vn.
Tn thực tế, theo trình bày ca H t H và V kng trc tiếp thc hin hp đồng mua
bông vi nhau, mà thực hin qua mt n đại lý trung gian là Công ty Trách nhim hu
hn BDV, mi tng tin các n trao đổi đu tng qua đơn vị trung gian. Hội đồng
phúc thm thấy các email buiminh@H.vn, nguyennhan@H.vn ca từng là email
cnh thức của H căn co các Giấy chứng nhận đăng doanh nghip của H qua các
thi kỳ. Đi với email gr@H.vn, theo H trình bày, mặc dù là email được đăng ký chính
thức nng đây là email mà H kng quản lý, không lp ra mà do Phòng đăng ký kinh
doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đu tư thành phHN lp ra vi mục đích đ qun lý và
hp thc hóa việc thay đi đăng ký doanh nghip. Hi đng phúc thẩm thấy, H không
có nghĩa vụ phải chng minh đang quản lý và s dng email gr@H.vn, pa V cũng
không chứng minh được H nhn đưc thông o ca Hiệp hi B thông qua email
gr@H.vn ng như H ca từng s dụng email gr@H.vn để trao đi tng tin vi V
hay phản hồi li thông báo của Hiệp hi B. Thậm chí, tại Giấy chứng nhận đăng
doanh nghiệp thay đổi lần thứ 5 ngày 15/8/2018 thì H không sử dụng email, fax
không còn website chính thức nữa. Do đó, thể thấy phương thức tđiện
tử được Hiệp hội B thực hiện không hợp lệ do thực hiện thông báo không đúng
địa chỉ tđiện tV cung cấp và H không nhận được thông o nào của Hiệp
hội B thông qua hình thức t điện tử.
Ngoài ra, tại phn a phúc thẩm, đại diện hợp pháp của H cũng khẳng
định Công ty H không có ai tên là Nguyen Thanh Nhan; H cũng không làm việc
trực tiếp với đối tác V m việc thông qua đơn vị trung gian là ng ty BDV,
mọi việc tha thun, thương thảo, ký kết Hợp đồng đều do người đại diện theo
pháp luật của H làm vic trc tiếp với đi din ca Công ty BDV; H chưa từng s
dng các email nêu trên cũng như s dụng email đ trao đổi, tha thun vi V hay
các đối tác khác; đa ch ca H cũng đã thay đổi theo Quyết định ca UBND thành
ph HN kéo theo đó là s fax ca H cũng đã b thay đổi. H không biết và hoàn
toàn không th biết v t tng th tc t tng trng tài nên không được tham gia
để bo v quyn li ca mình. Trình bày của đại din H ti phiên tòa phúc thm
là phù hp vi din biến khách quan ca s việc như đã nêu trên.
14
[3] Từ những phân tích, nhận định nêu trên, xét thấy, Tòa án cấp sơ thm
đã nhận định ý kiến phản đối ca H v việc không được thông báo ch định trng
tài viên th tc gii quyết v tranh chp bng trng tài mt cách hp thc,
thuộc trường hợp quy đnh đim c khon 1 Điu 459 B lut T tng dân s nên
không công nhn không cho thi hành ti Vit Nam Phán quyết trọng tài số
A01/2018/03 của Trọng tài Hiệp hội B giữa GA B.V (nay V B.V) H
căn cứ, đúng quy đnh pháp luật. Do đó, Hội đồng phúc thm không chp nhn
yêu cu kháng cáo ca V, cn gi nguyên Quyết đnh ca Tòa án cấp thẩm n
đề ngh của đại din Vin kim sát nhân dân cp cao ti Hà Ni ti phiên hp.
[4] Về lệ phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên V B.V phải chịu lệ
phí phúc thẩm theo quy định pháp luật.
các lẽ trên, căn cứ điểm a khoản 3 Điều 462 Bộ luật Tố tụng dân sự;
khoản 2 Điều 37; khoản 5 Điều 38 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
QUYẾT ĐỊNH:
1. Không chấp nhận kháng cáo của Công ty V; Giữ nguyên Quyết định xét
đơn yêu cầu công nhận cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài tại Việt
Nam số 17/2023/QĐST-TTTM ngày 06, 18 25/12/2023 của Tòa án nhân dân
thành phố Hà Ni.
2. Về lphí: Công ty V phải chịu 300.000 đồng lệ phí phúc thẩm giải quyết
yêu cầu về kinh doanh, thương mại, được đối trừ với số tiền tạm ứng lệ p
300.000 đồng Công ty V đã nộp theo Biên lai số 0022946 ngày 15/01/2024 tại
Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội. Xác nhận ng ty V đã thi hành xong
lệ phí phúc thẩm.
3. Các quyết định khác ca quyết định sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
ngh có hiu lc pháp lut k t ngày hết thi hn kháng cáo, kháng ngh.
4. Quyết định này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định.
Nơi nhận:
- VKSNDCC tại Hà Nội;
- TAND thành phố Hà Nội;
- VKSND thành phố Hà Nội;
- Cục THADS thành phố Hà Nội;
- Người được thi hành, người phải thi
hành (theo địa chỉ);
- Lưu: HSVKDTM; P.HCTP. TANDCC
tại Hà Nội.
TM. HỘI ĐỒNG GIẢI QUYẾT VIỆC
KINH DOANH THƯƠNG MẠI
THM PHÁN - CH TỌA PHIÊN HỌP
(Đã ký)
Đặng Thị Thơm
Tải về
Quyết định số 115/2024/QĐPT-DS Quyết định số 115/2024/QĐPT-DS

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Quyết định số 115/2024/QĐPT-DS Quyết định số 115/2024/QĐPT-DS

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Quyết định cùng lĩnh vực

Quyết định mới nhất