Bản án số 94/2019/HS-ST ngày 11/10/2019 của TAND huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 94/2019/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 94/2019/HS-ST ngày 11/10/2019 của TAND huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Tội danh: 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Quế Phong (TAND tỉnh Nghệ An)
Số hiệu: 94/2019/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 11/10/2019
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ: Không
Đính chính: Không
Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Q, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 94/2019/HS-ST NGÀY 11/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 10 năm 2019, tại Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 82/2019/TLST-HS ngày 19 tháng 9 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 99/2019/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Vi Văn P; Tên gọi khác: Không; sinh năm 1972, tại huyện Q, tỉnh Nghệ An.

Nơi cư trú: Bản Đ, xã M, huyện Q, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Nguyên trồng trọt; trình độ học vấn : Không học; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Vi Văn T; con bà : Quang Thị T; có vợ: Hà Thị H và 03 người con; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Năm 2007 bị Tòa án nhân dân huyện Q xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/7/2019. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Vi Văn P: Bà Nguyễn Thị T, Trợ giúp viên trợ giúp pháp lý, chi nhánh trợ giúp pháp lý số 2 thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nghệ An. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 12/7/2019 Vi Văn P đi đến bản M, xã M mua 01 gói Heroin với một người không quen biết, để sử dụng. Mua được ma túy bị cáo đi về đến bản L, xã M, huyện Q, tỉnh Nghệ An thì bị bắt quả tang, thu của bị cáo 01 gói chất bột màu trắng.

Tại cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Q qua xác định trọng lượng gói chất bột màu trắng thu của Vi Văn P có khối lượng 0,25 gam.

Bản kết luận giám định số 1050/KL- PC09(MT) ngày 17/7/2019 của phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận:

Mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Vi Văn P gửi tới giám định là Heroin. Gói chất bột màu trắng thu giữ của Vi Văn P gửi tới giám định có khối lượng 0,25 gam (Không phẩy hai mươi lăm gam).

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Vi Văn P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Cụ thể: Vào lúc 20 giờ, ngày 12/7/2019 tại bản L, xã M, huyện Q, tỉnh Nghệ An, Vi Văn P đang có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy thì bị bắt quả tang, thu giữ 0,25 gam Heroin. Mục đích bị cáo cất giấu ma túy là để sử dụng.

Bản cáo trạng số 88/CT-VKS- HS ngày 17/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo Vi Văn Phúc về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Đối với người bán trái phép chất ma túy cho bị cáo, do không xác minh được họ tên và địa chỉ, nên không có cơ sở để điều tra xử lý.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Q vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như bản cáo trạng đã kết luận và đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106; Điều 135; Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Vi Văn P từ 12 đến 18 tháng tù.

Đề nghị tịch thu tiêu hủy vỏ gói ma túy; miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Người bào chữa không tranh luận về tội danh và đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ và xử phạt bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung và miễn tiền án phí cho bị cáo.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Q, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, người bào chữa không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Mặc dù không được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp phép, nhưng vào lúc 20 giờ, ngày 12/7/2019 tại bản L, xã M, huyện Q, tỉnh Nghệ An, bị cáo Vi Văn P đang cất giấu trái phép chất ma túy thì bị bắt quả tang. Thu của bị cáo 0,25 gam Heroin. Bị cáo tàng trữ ma túy không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến sự độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước. Do đó bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết nhân thân, tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo không những xâm phạm trực tiếp đến sự độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, mà còn làm ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe, nòi giống của con người, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng; bị cáo có nhân thân xấu. Vì vậy cần xét xử nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người tốt có ích cho xã hội, răn đe và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên sau khi phạm tội bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[4] Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Q đề nghị xử phạt bị cáo Vi Văn P từ 12 đến 18 tháng tù; người bào chữa đề nghị xử phạt bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và người bào chữa là hợp lý.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, bị cáo không có việc làm ổn định, thu nhập thấp, điều kiện kinh tế khó khăn, không có tài sản đáng giá. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: Đối với 0,25 gam Heroin cơ quan điều tra lấy đi giám định chất ma túy hết còn lại vỏ gói ma túy không có giá trị, nên cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo bị kết án, nên phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm. Người bào chữa đề nghị miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo, nhưng trong hồ sơ không có tài liệu chứng minh bị cáo thuộc diện được miễn án phí theo Điều 12 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Tuyên bố: Vi Văn P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Phạt Vi Văn P 13 (Mười ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 12/7/2019.

Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ một phong bì thư bên trong có chứa vỏ gói ma túy thu giữ của bị cáo Vi Văn P.

Chi tiết vật chứng được ghi cụ thể trong biên bản giao nhận ngày 18/9/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Q với Chi cục thi hành án dân sự huyện Q, tỉnh Nghệ An.

Căn cứ vào Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Vi Văn P phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Vi Văn P có quyền kháng cáo bản án lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất