Bản án số 83/2023/HS-PT ngày 11-07-2023 của TAND tỉnh Hải Dương về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 83/2023/HS-PT

Tên Bản án: Bản án số 83/2023/HS-PT ngày 11-07-2023 của TAND tỉnh Hải Dương về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ
Tội danh: 202.Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Hải Dương
Số hiệu: 83/2023/HS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 11/07/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ: Không
Đính chính: Không
Thông tin về vụ án: Phạm Văn Tr phạm tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

 

TÒA ÁN NHÂN DÂN

TỈNH HẢI DƯƠNG
------------

Bản án số 83/2023/HS-PT
Ngày 11-7-2023

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

------------------------

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 83/2023/HS-PT NGÀY 11/07/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 11 tháng 7 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương, mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 80/2023/TLPT-HS ngày 31 tháng 5 năm 2023. Do có kháng cáo của bị cáo Phạm Văn Tr đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2023/HS-ST ngày 26 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Nam sách, tỉnh Hải Dương.

Bị cáo có kháng cáo: Phm Văn Tr, sinh năm 1991 tại T, tỉnh Hải Dương. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn N, xã C, huyện T, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Văn S và bà: Phạm Thị M; có vợ là Nguyễn Thị H và 3 con. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại, hiện có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Anh Nguyễn Hữu Nh – sinh năm 1993 (đã chết).

Người đại diện hợp pháp của bị hại: Ông Nguyễn Hữu L – sinh năm 1964 và bà Nguyễn Thị Đ – sinh năm 1967 Đều ở địa chỉ: Thôn V, xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Đàn: Ông Nguyễn Hữu L – sinh năm 1964. Địa chỉ: Thôn V, xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương.

Người làm chứng: Ông Phạm Văn S– sinh năm 1962. Vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn N, xã C, huyện T, tỉnh Hải Dương.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Văn Tr có giấy phép lái xe hạng B2 – Do Sở Giao thông vận tải tỉnh Hải Dương cấp ngày 24/9/2018, có giá trị đến ngày 24/9/2028. Khoảng 18 giờ, ngày 18/12/2022, Tr điều khiển xe ô tô nhãn hiệu VIOS, biển kiểm soát 34A-4.. theo hướng xã Q, huyện N về đường dẫn cầu Hàn, thành phố Hải Dương, tốc độ khoảng 60 đến 70km/h. Khi đi đến Km3+900 tỉnh lộ 390D thuộc địa phận xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương, Tr nhìn thấy phía trước xe khoảng 10-15m có một bao tải màu trắng ở giữa làn đường, nhưng thực tế anh Nguyễn Hữu Nh, sinh năm 1993 đang cúi xuống nhặt rác cạnh bao tải, Tr không giảm tốc độ mà tiếp tục điều khiển xe cách bao tải khoảng 3-4m thì thấy anh Nh nhưng Tr không xử lý giảm tốc độ nên xe ô tô do Tr điều khiển đâm thẳng vào bao tải và anh Nh làm cho anh Nh văng về phía trước, bánh xe ô tô chèn qua người. Do hoảng sợ nên Tr điều khiển xe ô tô đến Công an tỉnh Hải Dương trình báo sự việc. Anh Nh bị thương được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương, đến 21 giờ cùng ngày tử vong.

Tại bản Kết luận giám định pháp y về tử thi số 406/GĐPY ngày 23/12/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương, kết luận: Nguyên nhân chết của anh Nguyễn Hữu Nh là đa chấn thương (Chấn thương sọ não, chấn thương ngực kín, gãy xương đùi trái).

Tại bản kết luận định giá tài sản số 04/KL-HĐ ĐG TS ngày 13/3/2023 của Hội đồng định giá tài sản UBND huyện N, kết luận: Các bộ phận của xe ô tô TOYOTA VIOS, biển kiểm soát 34A-4… bị hư hỏng, tổng giá trị tài sản là 4.703.700đ.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 31/2023/HS-ST ngày 26/4/2023 của Tòa án nhân dân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương đã quyết định: Căn cứ điểm a khoản 1, khoản 5 Điều 260; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm k khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật hình sự; điểm b khoản 3 Điều 106, Điều 136 của BLTTHS, Luật phí và lệ phí, Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên bố bị cáo Phạm Văn Tr phạm tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Xử phạt bị cáo Phạm Văn Tr 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án. Ngoài ra bản án còn tuyên về hình phạt bổ sung, biện pháp tư pháp, về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 28/4/2023, bị cáo Phạm Văn Tr kháng cáo đề nghị giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.

Tại phiên tòa, Bị cáo ăn năn hối cải về hành vi của mình, bị cáo đã bồi thường đầy đủ và được gia đình bị hại đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo. Bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, còn bố mẹ già và các con nhỏ nên giữ nguyên nội dung kháng cáo đề nghị giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm: Đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận một phần nội dung kháng cáo của bị cáo, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 31/2023/HS-ST ngày 26/4/2023 của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Hải Dương về phần hình phạt, xử phạt bị cáo từ 6 đến 8 tháng tù. Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Bị cáo kháng cáo trong thời hạn luật định nên kháng cáo hợp lệ.

[2] Về nội dung: Khoảng 18 giờ, ngày 18/12/2022, Phạm Văn Tr điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 34A-448.21 theo hướng xã Q, huyện N đi cầu Hàn, thành phố Hải Dương, khi đi đến Km3+900 tỉnh lộ 390D thuộc địa phận xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương, do không chú ý quan sát và khi gặp chướng ngại vật trên đường đã không giảm tốc độ đến mức an toàn dẫn đến đầu xe ô tô đâm vào anh Nguyễn Hữu Nh, sinh năm 1993, ở thôn V, xã H, huyện N, khi anh Nh đang ở giữa đường. Hậu quả làm anh Nh bị thương và được đưa đi cấp cứu, đến 21 giờ cùng ngày tử vong; xe ô tô bị hư hỏng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự an toàn giao thông đường bộ và gây thiệt hại đến tính mạng của người khác. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo vi phạm khoản 1 và 2 Điều 5 Thông tư số 31/2019/TT-BGTVT ngày 29/8/2019, vi phạm khoản 1 Điều 12 Luật giao thông đường bộ và đủ yếu tố cấu thành tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, theo điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật hình sự. Cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật. Về tội danh không có kháng cáo và không bị kháng nghị nên HĐXX không xem xét.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo, HĐXX xét thấy: Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã tích cực bồi thường cho gia đình bị hại và gia đình bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo, áp dụng đầy đủ tình tiết giảm nhẹ và buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù là đúng quy định. Tuy nhiên, bị cáo phạm tội với lỗi vô ý, cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội đối với người bị khuyết tật nặng, theo điểm k khoản 1 Điều 52 của BLHS là không đúng. Cấp phúc thẩm không áp dụng tình tiết này đối với bị cáo. Hơn nữa, khi xảy ra va chạm giao thông thì bị hại đi bộ giữa lòng đường, phần đường dành cho xe cơ giới, không tuân thủ quy tắc khi tham gia giao thông đường bộ theo quy định tại Điều 32 Luật giao thông đường bộ nên người bị hại có một phần lỗi. Tại cấp phúc thẩm bị cáo thể hiện thái độ ăn năn hối cải và được gia đình bị hại gửi đơn đề nghị cho bị cáo được hưởng án treo. Do vậy, cần áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của BLHS đối với bị cáo. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 và 2 Điều 51 của BLHS, HĐXX xét thấy cần áp dụng điều 54 của BLHS quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng đối với bị cáo. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; Điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận một phần nội dung kháng cáo của bị cáo, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 31/2023/HS-ST ngày 26/4/2023 của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Hải Dương về phần hình phạt đối với Phạm Văn Tr.

[4] Về án phí: Kháng cáo của bị cáo được chấp nhận một phần nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các nội dung khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357, Điều 135 và 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Xử: Chấp nhận một phần nội dung kháng cáo của bị cáo Phạm Văn Tr. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 31/2023/HS-ST ngày 26/4/2023 của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Hải Dương về phần hình phạt đối với bị cáo Phạm Văn Tr.

2. Căn cứ điểm a khoản 1, khoản 5 Điều 260; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 54 và Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Văn Tr 06 (Sáu) tháng tù, về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

3. Về án phí: Bị cáo Phạm Văn Tr không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

 

Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Hải Dương;
- Sở tư pháp tỉnh Hải Dương;
- TAND, VKSND huyện Nam Sách;
- Cơ quan CSĐT – CA huyện Nam sách;
- Cơ quan THAHS - CA huyện Nam sách;
- Bộ phận HSNV- CA huyện Nam sách;
- Chi cục THADS huyện Nam sách
- Bị cáo và người tham gia tố tụng khác;
- Lưu hồ sơ, VP, Tòa GĐ&NCTN;
T.M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
 
 
 
Nguyễn Minh Tân
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất