Bản án số 67/2019/DS-ST ngày 28/10/2019 của TAND huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 67/2019/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 67/2019/DS-ST ngày 28/10/2019 của TAND huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Gò Dầu (TAND tỉnh Tây Ninh)
Số hiệu: 67/2019/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 28/10/2019
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ: Không
Đính chính: Không
Thông tin về vụ/việc:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ DẦU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 67/2019/DS-ST NGÀY 28/10/2019 TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu xét xử công khai sơ thẩm vụ án thụ lý số 176/2019/TLST-DS ngày 10 tháng 5 năm 2019, về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 83/2019/QĐXXST-DS ngày 08 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Huỳnh Văn Q, sinh năm: 1982. Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện G, tỉnh Tây Ninh (vắng mặt).

- Bị đơn: Chị Trần Thị Kim Ng, sinh năm: 1985. Địa chỉ: ấp b, xã B, huyện G, tỉnh Tây Ninh (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Trần Thị N, sinh năm: 1990. Ngụ cùng địa chỉ với anh Q (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Nguyên đơn anh Huỳnh Văn Q trình bày: Chị Trần Thị Kim Ng là bạn bè làm chung công ty trước đây với vợ anh là chị Trần Thị N nên anh có quen biết với chị Ng.

Theo giấy nợ chị Ng ghi vào ngày 19-7-2018, chị Ng vay của anh số tiền 30.000.000 đồng, khi vay chị Ng có viết giấy nợ, vay không lãi suất, chị Ng nói vay tạm trong 01 tháng để cho người khác làm cùng công ty chị vay lại. Sau khi vay chị Ng trả cho anh được 10.000.000 đồng vào ngày 18-7-2018 là ngày chị Ng vay được tiền Ngân hàng. Vấn đề ngày trả tiền trước ngày vay anh không rõ lắm vì chị Ng tự ghi giấy nợ nên có thể ghi không đúng ngày vay, do ngày trả tiền là ngày chị Ng vay được tiền Ngân hàng và chứng cứ chị Ng còn lưu giữ là đúng. Sau đó, chị Ng vay lại cũng 10.000.000 đồng, không làm giấy nợ, anh cũng không nhớ ngày. Trong những lần Toà án làm việc trước đây, anh yêu cầu chị Ng có nghĩa vụ trả cho vợ chồng anh 30.000.000 đồng. Khi làm đơn xin vắng mặt tại phiên tòa anh rút yêu cầu với số tiền 10.000.000 đồng và chỉ yêu cầu chị Ng có nghĩa vụ trả cho vợ chồng anh số tiền 20.000.000 đồng, anh không yêu cầu tính lãi.

Bị đơn chị Trần Thị Kim Ng trình bày: Chị thừa nhận có viết giấy nợ và ký tên vay của anh Q số tiền 30.000.000 đồng như anh Q trình bày là đúng. Tuy nhiên, sau khi vay khoảng 01 tháng chị đã trả 30.000.000 đồng cho anh Q. Sau đó, chị vay lại anh Q 10.000.000 đồng, khi trả tiền và khi vay lại không có làm giấy tờ, cũng không ai biết. Tất cả các ngày giao dịch vay và trả chị đều không nhớ. Hiện chị chỉ còn nợ vợ chồng anh Q 10.000.000 đồng nên chỉ chấp nhận trả số nợ này. Chị không đồng ý trả 20.000.000 đồng như yêu cầu của vợ chồng anh Q.

Chị vay tiền trong thời kỳ hôn nhân với chồng chị là anh Quách Hoàng T, chị dùng tiền tiêu xài cho cá nhân chị, chị và chồng chị đã ly hôn vào tháng 10-2018. Chị đồng ý đây là nợ riêng của chị, không liên quan gì đến chồng chị.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Trần Thị N trình bày: Chị thống nhất ý kiến với chồng chị là anh Q.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu tham gia phiên tòa phát biểu:

Về tố tụng: Từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng tuân thủ đúng theo pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn với số tiền yêu cầu là 20.000.0000 đồng và ghi nhận nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện đối với số tiền 10.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử trong trường hợp đương sự vắng mặt là phù hợp với Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện với số tiền 10.000.000 đồng nên Hội đồng xét xử cần đình chỉ yêu cầu này của nguyên đơn là phù hợp với các điều 217, 218 và 219 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Xét yêu cầu của anh Q thì thấy: Theo giấy nợ ghi ngày 19-7-2018, anh Q lại trình bày chị Ng trả 10.000.000 đồng vào ngày 18-7-2109 là có mâu thuẫn. Các đương sự không trình bày rõ được từng ngày tháng vay cũng như ngày trả. Tuy nhiên, cùng thống nhất có giao dịch vay mượn số tiền 30.000.000 đồng. Riêng anh Q thừa nhận chị Ng có trả cho anh 10.000.000 đồng. Đây là những tình tiết sự kiện không cần phải chứng minh, Hội đồng xét xử ghi nhận những nội dung này để làm căn cứ giải quyết vụ án là phù hợp với Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2.2] Chị Ng cho rằng sau khi vay 30.000.000 đồng, chị đã trả cho anh Q 30.000.000 đồng. Sau đó, chị vay lại anh Q 10.000.000 nên chị chỉ chấp nhận trả cho anh Q số tiền này là không có căn cứ. Bởi lẽ, anh Q không thừa nhận việc chị Ng có trả 30.000.000 đồng mà chỉ chấp nhận chị Ng có trả 10.000.000 đồng. Thấy rằng, chị Ng thừa nhận có vay nhưng không có chứng cứ chứng minh đã trả nên Hội đồng xét xử không chấp nhận. Đồng thời, chấp nhận theo lời trình bày của anh Q, theo đó, buộc chị Ng có nghĩa vụ trả cho anh Q và chị Nsố tiền 20.000.000 đồng là phù hợp với quy định tại Điều 466 Bộ luật Dân sự. Ghi nhận anh Q và chị N không yêu cầu tính lãi.

[2.3] Chị Ng vay tiền trong thời kỳ hôn nhân. Tháng 10-2018 chị Ng ly hôn. Các bên đương sự cùng thống nhất chị Ng sử dụng tiền cho mục đích cá nhân của chị nên 01 mình chị Ng có nghĩa vụ trả nợ cho anh Q và chị N. Hội đồng xét xử ghi nhận nội dung này là có căn cứ theo quy định tại Điều 45 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Như vậy, toàn bộ đề xuất của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu là có căn cứ, Hội đồng xét xử cần ghi nhận.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc chị Ng phải chịu 5% án phí trên số tiền phải trả cho chị N và anh Q là 20.000.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ các điều 95, 147, 217, 218 và 219 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 466 Bộ luật Dân sự; Điều 45 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 của ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện anh Huỳnh Văn Q và chị Trần Thị N đối với chị Trần Thị Kim Ng.

Buộc chị Trần Thị Kim Ng có nghĩa vụ trả anh Huỳnh Văn Q và chị Trần Thị Nsố tiền 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng). Ghi nhận chị N và anh Q không yêu cầu tính lãi.

2. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của anh Huỳnh Văn Q đối với số tiền yêu cầu là 10.000.000 đồng. Anh Q được quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu mà Tòa án đã đình chỉ.

3. Về án phí sơ thẩm dân sự: Buộc chị Ng phải nộp 1.000.000 đồng. Hoàn trả anh Q 750.0000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 009153 ngày 10-5-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Dầu.

Kể từ khi anh Q và chị N có đơn yêu cầu thi hành án nếu chị Ng không thi hành thì hàng tháng chị Ng còn phải trả cho anh Q và chị N phần lãi suất chậm thực hiện nghĩa vụ theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất