Bản án số 61/2020/HS-ST ngày 24/08/2020 của TAND huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 61/2020/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 61/2020/HS-ST ngày 24/08/2020 của TAND huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Tội danh: 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Vĩnh Tường (TAND tỉnh Vĩnh Phúc)
Số hiệu: 61/2020/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 24/08/2020
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ: Không
Đính chính: Không
Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH TƯỜNG, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 61/2020/HS-ST NGÀY 24/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 24 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 59/2020/TLST-HS ngày 28 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 69/2020/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 8 năm 2020, đối với bị cáo:

Đỗ Quyết T, sinh ngày 12 tháng 10 năm 1990. Tại: Xã C, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc. Nơi cư trú: Tổ 1, khu 1, phường T, thành phố V, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Văn C, sinh năm 1968 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1971; có vợ: Nguyễn Thị Kiều L, sinh năm 1990 (đã ly hôn) và có 02 con (lớn sinh năm 2011; nhỏ sinh năm 2019); tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/6/2020 đến nay, (có mặt).

Người làm chứng:

- Chị Vũ Thị H, sinh năm 1992; trú tại: TDP B, thị trấn T, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc, (vắng mặt).

- Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1965; trú tại: TDP B, thị trấn T, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc, (vắng mặt).

- Anh Vũ Văn H, sinh năm 1994; trú tại: Thôn N, thị trấn T, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc, (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 08 giờ 50 phút ngày 06/6/2020, tại nhà ở của Vũ Thị H, sinh năm 1992 ở Tổ dân phố B, thị trấn T, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc, Công an huyện Vĩnh Tường kiểm tra phát hiện, bắt quả tang Đỗ Quyết T, sinh năm 1990, hộ khẩu thường trú: Phường T, thành phố V, tỉnh Phú Thọ (là bạn trai của H) có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm: Thu trong chiếc ví giả da màu đen để ở trong túi quần bên phải phía trước T đang mặc có 05 túi nilon màu trắng bên trong đều chứa các hạt tinh thể màu trắng, T khai nhận đó là các túi ma túy tổng hợp của T cất giấu với mục đích sử dụng cho bản thân. Tang vật được niêm phong vào 01 phong bì thư theo đúng quy định của pháp luật, ký hiệu A1.

Căn cứ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Đỗ Quyết T, ngày 06/6/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Tường T hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Đỗ Quyết T ở Tổ dân phố B, thị trấn T, huyện Vĩnh Tường. Quá trình khám xét không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.

Ngày 06/6/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Vĩnh Tường ra Quyết định trưng cầu số 340 giám định tang vật thu giữ của Đỗ Quyết T đến phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc để giám định xác định trọng lượng và loại ma túy trong mẫu vật ký hiệu A1.

Ngày 10/6/2020, Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc có Bản kết luận giám định số 1343/KLGĐ, kết luận: Tinh thể dạng hạt màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,8750g (Một phảy tám bảy năm không gam, không kể bao bì) loại Ketamine.

Hoàn trả trực tiếp đối tượng giám định còn lại sau giám định cho cơ quan trưng cầu gồm: A1 = 1,6962 gam mẫu và toàn bộ bao gói.

Về nguồn gốc số ma túy thu được khi phát hiện bắt quả tang, T khai nhận: Vào khoảng 20 giờ ngày 05/6/2020, T một mình đi nhờ xe mô tô của người đi đường đi từ nhà H đến khu vực vòng xuyến lối đi lên cầu Vĩnh Thịnh thuộc xã Tam Phúc, huyện Vĩnh Tường với mục đích mua ma túy đem về sử dụng cho bản thân. Tại đây T đã hỏi và mua được 05 túi ma túy tổng hợp Ketamine của một người đàn ông không quen biết tự giới thiệu tên là T, khoảng 35 tuổi, dáng người cao to, nước da đen với giá 1.500.000đ. Sau khi mua được, T cất giấu trong chiếc ví giả da màu đen và để chiếc ví đó trong túi quần đang mặc, đến sáng ngày 06/6/2020 khi T đang ở nhà tại Tổ dân phố Bắc Cường, thị trấn Tthì có lực lượng Công an huyện Vĩnh Tường đến kiểm tra phát hiện bắt quả tang như đã nêu trên. T khai nhận, việc T mua và tàng trữ ma túy trong người thì H không biết và không liên quan. Quá trình điều tra chưa xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của người đã bán ma túy cho T như T khai. Do vậy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Tường tiếp tục T hành xác minh làm rõ khi có căn cứ sẽ xử lý theo quy định pháp luật.

Tại Cáo trạng số 65/CT-VKSVT ngày 28/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Tường đã truy tố bị cáo Đỗ Quyết T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng đối với bị cáo T; sau khi đánh giá tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đỗ Quyết T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm g khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đỗ Quyết T từ 01 năm 03 tháng tù đến 01 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 06/6/2020. Hình phạt bổ sung: Đề nghị không áp dụng. Ngoài ra còn đề nghị xử lý vật chứng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Vĩnh Tường, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Tường, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng đều hợp pháp.

[2]. Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Tường, bị cáo khai nhận:

Hồi 08 giờ 50 phút ngày 06/6/2020, tại nhà ở của Vũ Thị H, sinh năm 1992 ở Tổ dân phố B, thị trấn T, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc, Công an huyện Vĩnh Tường kiểm tra phát hiện, bắt quả tang Đỗ Quyết T (là bạn trai của H) có hành vi tàng trữ trái phép 1,8750g ma túy, loại Ketamine, T khai nhận là ma túy của T mua về để sử dụng cho bản thân. Vật chứng thu giữ gồm: Thu giữ của T 05 túi nilon màu trắng bên trong có chứa 1,8750g ma túy, loại Ketamine.

[3]. Xét lời nhận tội của bị cáo là phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ như lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc, phù hợp với biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, biên bản khám xét chỗ ở cùng các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hành vi của Đỗ Quyết T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, có khung hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

[4]. Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Ketamine là chất ma túy rất độc, gây nghiện, gây nguy hại cho cơ thể người sử dụng, ảnh H đến sự phát triển lành mạnh của các thế hệ sau này, ảnh H đến kinh tế của cả xã hội. Đây cũng là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn trong xã hội như trộm cắp, cướp giật, giết người.... Bị cáo hiểu rõ tác hại của ma túy nhưng vẫn cố ý phạm tội. Vì vậy cần phải có mức hình phạt nghiêm khắc với bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[5]. Xét nhân thân của bị cáo cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội; bản thân chưa có tiền án, tiền sự do đó được H tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo T là đối tượng không có nghề nghiệp ổn định và không có tài sản vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[7]. Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho T ở khu vực vòng xuyến lối đi lên cầu Vĩnh Thịnh, xã Tam Phúc, huyện Vĩnh Tường. Quá trình điều tra chưa xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của người đã bán ma túy cho T như T khai. Do vậy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Tường tiếp tục T hành xác minh làm rõ khi có căn cứ sẽ xử lý sau.

[8]. Đối với Vũ Thị H, quá trình điều tra xác định H không biết, không liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của T, nên cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với H là phù hợp.

[9]. Vật chứng của vụ án: Đối với mẫu giám định và bao gói cơ quan giám định hoàn lại cần tịch thu tiêu hủy.

[10]. Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH:

1. Căn cứ: Điểm g khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

2. Tuyên bố bị cáo Đỗ Quyết T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Đỗ Quyết T: 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 06 tháng 6 năm 2020.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 1,6962 gam mẫu cùng toàn bộ bao gói do cơ quan giám định hoàn lại.

Vật chứng nêu trên có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Vĩnh Tường và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Tường.

5. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Bị cáo Đỗ Quyết T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo bản án để đề nghị xét xử phúc thẩm. 

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất