Bản án số 54/2019/HS-ST ngày 04/09/2019 của TAND Q. Ngô Quyền, TP. Hải Phòng về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 54/2019/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 54/2019/HS-ST ngày 04/09/2019 của TAND Q. Ngô Quyền, TP. Hải Phòng về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Tội danh: 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND Q. Ngô Quyền (TAND TP. Hải Phòng)
Số hiệu: 54/2019/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 04/09/2019
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ: Không
Đính chính: Không
Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 54/2019/HS-ST NGÀY 04/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 52/2019/TLST-HS ngày 14 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 147/2019/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh ngày 14 tháng 10 năm 1982 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn D, xã H, huyện C, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T1 và bà Đoàn Thị N; có vợ là Trần Thị Bích H (đã ly hôn) và có 01 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ ngày 07/5/2019, tạm giam ngày 09/5/2019; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 0 giờ ngày 07 tháng 5 năm 2019, tại khu vực ngã tư L - T, phường L, quận N, thành phố Hải Phòng, phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Hải Phòng kết hợp với công an quận N, thành phố Hải Phòng kiểm tra bắt quả tang Nguyễn Văn T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ trong túi quần bò phía sau bên phải của Nguyễn Văn T đang mặc 01 ví da màu đen bên trong chứa 03 gói giấy màu trắng kích thước mỗi gói khoảng 1x2cm, bên trong đều chứa chất bột màu trắng và 226.000 đồng, 01 điện thoại di động Iphone 6 màu hồng đã qua sử dụng, 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Vison, biển kiểm soát 15B1-460.22. Tổ công tác đã đưa Nguyễn Văn T và vật chứng về trụ sở Công an phường L lập biên bản giải quyết.

Kết luận giám định số 195/KLGĐ(Đ6) ngày 09/5/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng, kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn T gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,23 gam, là loại: Heroine.

Quá trình điều tra Nguyễn Văn T khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy Heroine nên khoảng 23 giờ ngày 06 tháng 5 năm 2019, Nguyễn Văn T mượn chiếc xe mô tô biển kiểm soát 15B1-460.22 của người bạn tên C (hiện không xác định được tên, tuổi, địa chỉ) đi đến khu vực Bờ mương C, quận N, thành phố Hải Phòng mua của một người đàn ông không quen biết 03 gói heroin với giá 300.000 đồng. Sau đó T cất 03 gói ma túy trong ví cho vào túi quần bò phía sau bên phải Nguyễn Văn T đang mặc và đi tìm nơi sử dụng. Khi đến khu vực ngã tư đường L - T thì bị bắt quả tang cùng vật chứng.

Lời khai nhận tội nêu trên của Nguyễn Văn T phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ và kết luận giám định.

Vật chứng: 01 điện thoại Iphone 6 màu hồng, 01 ví da màu đen, số tiền 226.000 đồng và 01 phong bì niêm phong số 195/2019/PC09 bên trong chứa ma túy còn lại sau giám định.

Đối với xe máy biển kiểm soát 15B1- 460.22. Quá trình điều tra, xác minh làm rõ là xe tang vật của vụ án trộm cắp tài sản xảy ra tại huyện A, thành phố Hải Phòng. Cơ quan điều tra đã tiến hành bàn giao chiếc xe trên cho cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện A để xử lý theo thẩm quyền.

Tại Bản Cáo trạng số 55/CT-VKSNQ ngày 12/8/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân quận N, thành phố Hải Phòng đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung trên, phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng thu được và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Văn T với mức án từ 18 tháng đến 24 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo do bị cáo không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng.

Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 01 bì thư niêm phong số 195/2019/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng và 01 ví da màu đen đã cũ; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động Iphone 6 màu hồng và 226.000 đồng, nhưng tạm giữ lại số tiền này để đảm bảo việc thi hành án.

Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an quận Ngô Quyền, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng và các tài liệu, chứng cứ khác được Cơ quan điều tra thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với sự thật khách quan, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 0 giờ ngày 07 tháng 5 năm 2019, tại khu vực ngã tư L - T, phường L, quận N, thành phố Hải Phòng, Nguyễn Văn T bị bắt quả tang hành vi tàng trữ trái phép 0,23 gam ma túy Heroine với mục đích để sử dụng cho bản thân. Việc cất giấu chất ma túy của bị cáo Nguyễn Văn T không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy. Tại thời điểm thực hiện hành vi ngày 07/5/2019, bị cáo là người trên 18 tuổi, có đầy đủ năng lực hành vi trách nhiệm hình sự. Bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Như vậy, hành vi của bị cáo Nguyễn Văn T đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

- Đánh giá về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma tuý, xâm phạm trật tự trị an xã hội, làm phát sinh, gia tăng nhiều loại tội phạm hình sự khác.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

[4] Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[5] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6] Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, tình tiết giảm nhẹ, trên cơ sở đề nghị của Kiểm sát viên và kết quả xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa; sau khi xem xét các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, bắt bị cáo tiếp tục cách ly khỏi xã hội một thời gian, mới có đủ điều kiện giáo dục bị cáo và phát huy tác dụng răn đe, đáp ứng yêu cầu phòng ngừa chung.

- Về hình phạt bổ sung:

[7] Căn cứ biên bản xác minh ngày 15 tháng 7 năm 2019 cho thấy bị cáo không có tài sản, không nghề nghiệp ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

- Về xử lý vật chứng:

[8] Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, xử tịch thu tiêu hủy 01 phong niêm phong số 195/2019/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng và 01 ví da màu đen đã cũ; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động Iphone 6 màu hồng và 226.000 đồng, nhưng tạm giữ lại số tiền này để đảm bảo việc thi hành án.

[9] Đối với xe máy biển kiểm soát 15B1- 460.22. Quá trình điều tra, xác minh làm rõ là xe tang vật của vụ án trộm cắp tài sản xảy ra tại huyện A, thành phố Hải Phòng. Cơ quan điều tra đã tiến hành bàn giao chiếc xe trên cho cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện A, thành phố Hải Phòng để xử lý theo thẩm quyền nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[10] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[11] Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[12] Trong vụ án này, đối với người đàn ông bán ma túy cho Nguyễn Văn T, Cơ quan điều tra chưa làm rõ được căn cước, lai lịch, tiếp tục xác minh làm rõ có căn cứ sẽ xử lý sau.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Nguyễn Văn T 18 (mười tám) tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý". Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07 tháng 5 năm 2019.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong niêm phong số 195/2019/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng và 01 ví da màu đen đã cũ; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động Iphone 6 màu hồng và 226.000 đồng (hai trăm hai mươi sáu nghìn) đồng, nhưng tạm giữ lại số tiền này để đảm bảo việc thi hành án. Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13 tháng 8 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận N, thành phố Hải Phòng.

Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo Nguyễn Văn T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất